Biên độ mở trong Đêm nguyệt bạch qua nhân vật và giọng điệu

615

           Nguyễn Tấn Ái

(Vanchuongphuongnam.vn) – Đêm nguyệt bạch là câu chuyện tình yêu mà cứ không phải là câu chuyện tình yêu. Đó cũng là đặc điểm truyện Lê Trâm, vừa là nó lại không là nó. Là một nó tự phá bỏ hình hài để nỗ lực đi tìm một đối thoại ngoài mình. Và như thế, phần lớn các truyện ngắn của Lê Trâm là những truyện chưa hoàn chỉnh, nó dành để một biên độ mở cho người đọc.

Tác phẩm Đêm nguyệt bạch của Lê Trâm 

 Một chân dung thật đến run rẩy hé mở nỗi ẩn ức của người đàn ông – lời chú thích cho trang trí bìa ngoài ngay lập tức dẫn người đọc đến với tập truyện Đêm nguyệt bạch bằng tâm cảm. Như có một dải lụa mềm quấn quanh tâm tưởng, cheo leo một níu với, đôi cánh tay thiên thần đang vẫy gọi một bất lực ở phía bên kia. Hình hài tập truyện đẹp đến không tưởng, những tập truyện mà ở đó có sự cộng hưởng của họa sĩ và người viết như thế quả rất hiếm hoi. Tuấn, dân địu (dân khai thác trầm), trong một cơn sốt rừng được Hạnh, cô giáo cắm bản, nhặt về từ một con suối rừng. Qua bao dè dặt canh chừng, cuối cùng, nàng tiên núi rừng đã nép vào người anh ngủ một giấc ngon lành, tin cẩn. Thêm một phụ chú: vẫn khoả thân như đang múa. Chuyện chỉ vậy thì khá đơn giản, song không dừng ở đó, sức hấp dẫn của truyện không chỉ ở một bút pháp giàu chất thơ, mà ở những vỉa ý nghĩa cũng mơ hồ thoáng qua như tình yêu nguyệt bạch, một Hạnh cô đơn giữa đời tìm thấy ý nghĩa đời mình trong tình yêu dân bản, họ quý em ngang bằng với già làng đó – lời Hạnh; một Tuấn từng trải thời trận mạc, thời dựng xây, nhận ra kẻ thù nguy hiểm nhất của mình lại chính là những kẻ cơ hội nấp bóng đồng đội, là gã đại đội trưởng mà nếu lần ấy anh không kìm được mà kéo hết băng đạn trước tay đại đội trưởng thì chắc đã ra toà án binh rồi, là tay chủ nhiệm hợp tác xã mà xã viên chửi như xúc c. đổ vào mặt. Đêm nguyệt bạch là câu chuyện tình yêu mà cứ không phải là câu chuyện tình yêu. Đó cũng là đặc điểm truyện Lê Trâm, vừa là nó lại không là nó. Là một nó tự phá bỏ hình hài để nỗ lực đi tìm một đối thoại ngoài mình. Và như thế, phần lớn các truyện ngắn của Lê Trâm là những truyện chưa hoàn chỉnh, nó dành để một biên độ mở cho người đọc.

Chưa hoàn chỉnh trước hết xét từ góc độ nhân vật. Đọc đi ngẫm lại hơn hai trăm trang viết, tôi ngờ ngợ như nhận ra rằng những nhân vật chính diện chưa bao giờ có cơ hội làm nhân vật chính trong truyện của Lê Trâm. Chăn dê, Ẩn, Người đo nước, Một trang giải phẩu sinh lý người… Tiếu (Chăn dê), thằng Cu (Ẩn), Tùng (Người đo nước), ông Dưỡng (Một trang giải phẩu sinh lý người) chỉ là nhân vật được nói đến, là những nhân vật chưa được phép có diễn ngôn dù họ là cái phần tốt đẹp mà chuỗi diễn ngôn của nhà văn hướng đến. Ấy là khi nhân vật chính bỏ cuộc để nhận ra nhân vật chính của cuộc đời lẽ ra không phải là họ. Như có một ẩn ức phi lý trong xử lý nhân vật của nhà văn. Ẩn ức phi lý ấy còn được dẫn dụ bởi hình tượng nhân vật chính lắm khi cứ như kẻ ngốc giữa cuộc đời, chao đảo ngã nghiêng bên lằn ranh thiện-ác. Người xưng tôi, chứng nhân cho câu chuyện của Tiếu, kẻ cao đạo tự phân định rạch ròi giữa tình người và tình dục lại là kẻ quan sát với một cảm nhận vừa rờn rợn vừa pha màu thích thú hoang dã cảnh đàn dê phục tùng kẻ chúa bầy đàn “Đứng chờ cho cụ dê đực kiểm tra hết một lượt các mụ dê cái rồi mới lùa đi. Nếu có mụ nào ngoan cố trốn lượt là coi như cực với cụ, mà tôi cũng phải mệt lây cho cụ. Nhiều bữa vụ việc này kéo dài dai nhách đến độ cứ muốn lia một dao đứt phứa cho đỡ gai mắt” (Chăn dê). Rồi Tâm, người hùng dở hơi, sau khi hạ gục Sáu Sửu lại để cho Sáu Sửu hạ gục con bé Lam một cách không thương tiếc, gã (Tâm) đúng như lời nhạo báng: trí thức liệt dương (Ẩn). Đọc đoạn kết Đêm nguyệt bạch, tôi cứ thấy thương cho cô giáo Hạnh quá, cứ muốn ném trả Tuấn về cho rừng rú: Tuấn thức giấc khi trời rựng sáng. Cô gái cong người nép sát vào anh, vẫn đang chìm trong giấc ngủ sâu. Và khoả thân như đang múa. Lại nói như lời nhân vật: cô ấy cả tin đến dại dột. Đêm nguyệt bạch cứ như một tiếng thở dài của đời thực dù được huyền thoại đan cài nâng đỡ. Mà có lạ gì đâu, thủ pháp này là thủ pháp quen dùng của cổ tích, có khác nhau chăng là cổ tích chỉ dùng để ru giấc mộng trẻ thơ, còn bạn đọc của Lê Trâm thì đã qua thì mơ mộng.

Có lẽ một trong những phương diện mà người đọc vẫn dùng làm tiêu chí để “xếp hạng” nhà văn là giọng điệu. Đan cài trong tập truyện là hai chất giọng, một rất thơ một rất cáu kỉnh trần trụi. Mà chủ đạo cho chất giọng của tập truyện không phải là chất thơ mà là giọng điệu cáu kỉnh. Cô tin đâu đó sự hiện diện của người đàn bà đỏng đảnh mang tên số phận. Phải, bà ta đã hào phóng vung vãi hạnh phúc cho cô suốt những năm tháng phổ thông rồi đại học. Cả sau này nữa. Bây giờ, chừng như bà ta đang tính sổ và lấy lại dần (Mong manh trước gió). Ngày mai, lễ Phục sinh, phước cho Chúa, ngài còn có lúc phục sinh, còn chúng tôi, chẳng bao giờ có lúc phục sinh (Chìm dưới bụi thời gian). Một bữa tôi đọc được dòng chữ nguệch ngoạc trên tấm bảng trước chòi: Ở ĐÂY CÓ BÁN BÈN ĐẠI HỌC GIÁ RẺ! Bên dưới có khuyến mãi thêm hình hai cái sinh thực khí lồng vào nhau. Có lẽ đứa nhỏ nào đó lén viết lúc tôi mãi mê đọc sách… (Ẩn). Giọng điệu ấy nói gì? Nó là hóa thân của triết lý: Đời là tàn nhẫn lắm! (Mong manh trước gió). Truyện của Lê Trâm ở đây mang ẩn ức của một đổ vỡ dịu dàng. Những mảnh đời sống bung ra trong cuộc va chạm giữa hai thiên thạch trong hành trình hình thành sự sống mới, là tất nhiên. Cái đáng quý là nó dịu dàng. Thiên chức nhà văn, người kiến tạo cuộc sống đã hãm đà, đã điều hướng để làm nên một chừng mực cần có cho những trang viết. Đó là lúc anh phả vào đâu đó những trang đời một chất thơ của tình yêu. Biển dịu dàng quá đỗi. Tiếng sóng chỉ còn thì thầm. Tôi nhắm mắt. Cứ như Adam và Eva (Đêm dịu dàng). Nhờ có niềm tin nên đám con gái chẳng hề sợ dù phải ra bến một mình giữa đêm hôm khuya khoắt. Lớn lên chút nữa, cô bé sẽ biết thêm điều quy định khác, rằng con trai có thể được quyền ra bến với người mình yêu và tự tay cô gái phải đánh dấu sự có mặt của người yêu bằng một nhành gai kéo ngang bến để làm thêm một nhiệm vụ khác, đẹp và thơ hơn (Lao xao bến đời). Đọc những trang thế ấy tôi ngờ rằng đó không là văn, đó là người, cái con người quản lý giáo dục chừng mực và đôn hậu ở anh như bạn bè từng biết.

Song có lẽ đó chỉ mới là nỗ lực ngoài văn mà chưa thực sự là sức sống nội tại của trang văn, nếu nhà văn nỗ lực hơn, để truyện tự nói lên tiếng nói của mình thì sức thuyết phục của tác phẩm sẽ tăng hơn rất nhiều. Tôi thích sự thuyết phục trong giọng điệu ở phần kết của truyện Chìm dưới bụi thời gian, Victor, người lính Mỹ vừa là tội đồ vừa là ân nhân của Thuỳ Dung trong cuộc chiến tàn khốc, cuối cùng Thuỳ Dung gặp lại con của hắn. Cả thế giới tâm trạng không rõ là yêu thương hay thù hận, hay cả hai ở Thuỳ Dung chỉ gói gọn trong lời thoại: Tôi không thể hình dung được ngày này. Cô nói đi, Victor của tôi đâu rồi? Và cả người con gái đi tìm ký ức của cha kia nữa, cả dòng tâm trạng nửa bàng hoàng nửa tỉnh táo diễn đạt một thông tin: con người chưa kịp đủ thời gian tâm lý để nhận diện cuộc sống. Những trang như thế, tác giả không cần phải biện minh. Chợt nhớ lý luận hậu hiện đại của R.Barthes, rằng: Tác giả đã chết. Tác phẩm tự sống đời sống khách quan của mình.

Vượt qua con số mười trong danh mục tác phẩm đã in đã là một gia tài chữ nghĩa. Song điều đáng nói là nhiệt huyết văn chương ở Lê Trâm hãy còn hừng hực lắm. Đỗ Phủ ở buổi chưa chạm lục tuần mà đã thật thuyết phục khi ngẫm về nghiệp viết: Cổ lai tồn lão mã/ bất tất thủ trường đồ (ngựa già xưa nay thế/ hà tất bận đường xa), song tôi ngẫm vó ngựa Lê Trâm hãy còn hăng hái bốc bụi mù. Dặm dài văn chương với Lê Trâm càng lúc càng trở nên ấn tượng.

                                                     N.T.A