(Vanchuongphuongnam.vn) – Năm 1971, mặt trận Lào đang chiến dịch “cù kiệt” ( trả hận), bom đạn tóa lửa trên trời dưới đất, bỗng một sáng anh Trung Nhân đi giao ban cơ quan Chính trị về, bảo rằng:” Hoài ơi, em chuẩn bị ra Hà nội tham gia trại viết của Tổng cục nhé.”… Thế là chiều tối ấy, khoác ba lô chào anh em ra barie đón xe từ Phunokcok về đèo Đất, bom đạn vẫn cứ ầm ầm xung quanh, rồi đêm sau đón xe từ Đèo Đất về Mường xén, vẫn cứ máy bay bay theo xả hàng loạt đạn bom… Cho đến khi về tới Mường xén thuộc đất mình mới tạm yên ổn, rồi nhảy xe BT 11 từ Mường xén về ga Si đón tàu về Hà Nội…
Nhà thơ Châu La Việt
Phải nói từ mặt trận về trại viết khi ấy cứ như từ địa ngục khét lẹt đan bom về thiên đường. Trại viết ở tại công trường 800 (Nay là đường Hoàng Quốc Việt), cùng với đoàn chèo Tổng cục, những chị Tuất chị Sửu chị Quỳnh Dung em Oanh em Hoàng đẹp mê man , hát múa ngúng nguẩy cứ như tiên nữ hết lượt (Trong ánh mắt những thằng lính từ mặt trận mới về). Lại được ăn cơm tiểu táo, ngày ba bữa cứ đánh tì tì, lại chuyên tâm chỉ mỗi việc viết lách, có thầy giỏi là những văn nghệ sỹ nổi tiếng kèm tay, lại thêm có ông thầy Tào Mạt nhiệt tình đến mức nửa đêm còn dựng trò dạy hát chèo cho nghe, miệng hát tay khua cứ như lên đồng… Mới thầm nghĩ thiên đường là đây chứ còn là đâu nữa !
… Quả với tôi, văn chương đàn hát từ ngày ấy thực sự là thiên đường. Tôi chẳng thiết gì khác ngoài nó. Khổ đau cùng cực hay ăn đói mặc rách vì nó cũng chẳng sá gì!…
Sau trại viết ấy về, một thời gian sau, binh trạm lại cử tôi ra Hà nội học một lớp điện ảnh. Ở đây tôi gặp một thằng tân binh người Tày cũng rất thích làm thơ là Hứa Vĩnh Sước. Thế là hai thằng chẳng học điện ảnh mấy, (thực chất là chiếu bóng không làm tôi mấy hứng thú so với việc làm thơ viết văn), nên chỉ cùng Hừa Vĩnh Sước suốt ngày đàm đạo thơ ca và chở nhau đi khắp Hà Nội theo đuổi văn chương… Sau này Hứa Vĩnh Sước kể lại về con đường thơ ca của chúng tôi:
“Dạo ấy đang là mùa hè. Việt nhễ nhại đèo tôi bằng chiếc xe đạp Thống Nhất đi từ Thanh Trì lên nội thành Hà Nội. Việt dẫn tôi đến ngôi nhà số 4 phố Lý Nam Đế. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi được bước chân vào ngôi nhà Văn nghệ Quân đội. Cảm xúc lâng lâng thật khó tả. Ngạc nhiên có. Sờ sợ có. Choáng ngợp có. Thinh thích có. Và người đầu tiên, Việt giới thiệu với tôi. Đây là nhà thơ Xuân Sách. Còn đây là nhà thơ Văn Thảo Nguyên. Họ là nhà thơ ư ? Sao họ cũng ăn ở sạch sẽ, chỉnh chu, bình thường như mọi người. Thậm chí hai nhà thơ này chỉ nhúm cười thân mật. Họ ít nói về mình, càng không nói gì về thơ văn cả. Trời ơi! Tôi đã đọc họ rồi. Thậm chí còn thuộc khá nhiều bài của họ. Nhưng sao nhà thơ… Lẽ ra họ… không biết nói thế nào về những người này. Trong mắt tôi, họ là những người âm u bí hiểm. Đại loại như mấy ông thày mo thày tào trên quê tôi. Đại loại họ bẩn bẩn một chút. Hôi hôi một chút. Tóc dài, râu dài, móng tay quăn tít như hoa móng rồng. Họ nói như ma nói. Âm thanh giọng người phát ra như chuông rè, đầy màu sắc mộng mị…
Kỉ niệm ấy không bao giờ quên. Nó nhắc đi nhắc lại trong tôi. Nhà thơ là thế đó. Bình thường như mọi người. Dễ mắc sai lầm hơn mọi người. Ảo tưởng mơ mộng thì nhiều hơn mọi người. Khóc vì nỗi đau nhân thế nhiều hơn mọi người. Buồn vì tay mình luôn ngắn hơn ống tay áo. Làm thơ có gì sướng, thi nhau lăn lưng vào là sao nhỉ?..
Châu La Việt là người đưa tôi đến ngôi nhà văn chương một cách ngẫu nhiên thôi. Việt bảo tao đưa mày đi chơi cho biết Hà Nội. Dạo ấy tôi đâu đã thiết tha với cái nghiệp thi ca văn chương, chỉ muốn đi cho biết Hà Nội nó to như thế nào. Lúc đầu chỉ là thỏa mãn trí tò mò. Tò mò mãi đâm ra thành quen. Ngày đầu mới chỉ làm quen văn chương thôi. Sau này và kể cả bây giờ, tôi “chết” như rệp. “Chết” là bởi cái đẹp của sự sáng tạo nghệ thuật ngôn từ…”
Năm 2017, tôi lại về Nha Trang dự một trại viết về người lính, cũng của NXB Quân đội tổ chức. Trước khi tham gia trại, tôi có hai tập sách là tiểu thuyết “Triền dâu xanh ngát” và tập truyện ngắn” Binh trạm phía tây” in ở NXB, có lẽ bởi thấy tôi tâm huyết với đề tài người lính nên anh em đã mời tôi tham gia trại ( cùng các nhà văn, nhà thơ Mai Nam Thắng, Chi Phan, Nguyễn Trọng Tân, Nguyễn Minh Ngọc, Lê Huy Quang, Trần Bích Nga, Nguyễn xuân Hùng, Đỗ Ngọc Yên…).Chính ở Nha trang, tôi vô cùng xúc động gặp lại dấu vết người sư đoàn trưởng đầu tiên của tôi: Thiếu tướng Hà VI Tùng, sư trưởng sư đoàn 320 b. Thế là lẳng lặng thuê một chiếc taxi, rồi xe ôm, đường loằng ngoằng lắm, tìm đến nhà lưu niệm của thủ trưởng để dâng hương lên thủ trưởng.Tôi nhớ lúc thắp hương xong, tôi cứ đứng lẩm nhẩm vừa như báo cáo, lại vừa như tâm sự với Sư đoàn trưởng, lại cả đọc thơ cho sư trưởng nghe nữa…
– Thưa thủ trưởng – Tôi thầm thì cùng ông – Chúng em (Ngày ấy chúng tôi hay xưng là em với các thủ trưởng) là những người người lính sư đoàn 320b năm xưa được thủ trưởng dìu dắt và huấn luyện, sau đó được bổ sung cho các mặt trận, chiến trường. Chúng em trở thành những người lính chiến dũng cảm, hoàn thành sứ mệnh với quê hương đất nước cũng một phần từ chính sự huấn luyện, giáo dục, yêu thương của các thủ trưởng”
Bất giác, tôi thầm đọc ông nghe một bài thơ tôi viết về những người lính Hà nội ngày ấy do ông huấn luyện, vào chiến đấu ở mặt trận và anh dũng hy sinh: “ Hà nội ơi có biết bao chàng trai/Như bạn tôi đã không về nữa/Sông Hồng vẫn trôi và mây trắng vẫn bay/Nhưng lắng nghe từ trong hương hoa sữa/Như có mùa thu của ngày ấy lên đường/Nhưng lắng nghe từ trong hương hoa sữa/Có bạn về trong mỗi làn hương…”
Vâng, thưa thủ trưởng, chúng em đã chiến đấu, đã sống xứng đáng với những gì thủ trưởng đã trao, đã dạy dỗ,huấn luyện, xứng đáng với truyền thống của sư đoàn 320 B ngày ấy. Mãi mãi chúng em không bao giờ quên các thủ trưởng, quên người sư đoàn trưởng đầu tiên của mình…
Và ngay đêm ấy, trong một niềm xúc động dâng trào, tôi đã viết ký sự:”Sư đoàn trưởng của tôi”, bổ sung ngay để hoàn chỉnh cho tập sách “ Một người lính Nam tiến” về Sư trưởng của tôi – Tướng Hà Vi Tùng.
Trại viết về người lính 2019 Vũng Tàu…
Tôi ngồi lặng lẽ trong một căn phòng của Trại viết, và nhìn ra biển rộng. Văng vẳng bên tai tôi, hòa trong tiếng sóng biển, là lời Nhà văn Paustovsky trong truyện ngắn Bụi quý :” Giống như bông hồng vàng của người thợ hót rác già kia làm ra là để cho Xuyzan được hạnh phúc, sáng tác của chúng ta là để cho cái đẹp của Trái Đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc, vì niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh của trí tuệ chiến thắng bóng tối, cho chúng ta rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt.”
Và lời Nhà văn Đỗ Chu yêu thương dặn riêng cho nghiệp cầm bút của tôi: ”Việt ơi, hãy viết như mẹ em từng đã hát. Ngậm từng chữ, nhả từng câu ,đau như lòng tằm và quý phái như tấm lụa tơ tằm. Say mê tột cùng và thương nhớ cũng tột cùng…”
Và rồi trong sóng biển Vũng Tàu, tôi viết trường ca “ Dòng sông thơm hương cỏ xương bồ”. Viết theo thể thơ 7 chữ cổ kính, đúng như thể thơ nhà thơ Tố Hữu đã viết trường ca “Theo chân Bác”.
Tôi chỉ thầm nghĩ một điều: Phía trước là kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tố Hữu- Một nhà thơ lớn, người đã có những vần thơ tuyệt vời về Đất nước, Nhân dân, về những người chiến sỹ, và đặc biệt là về Bác Hồ. Có lẽ nào không có những vần thơ, những trường ca hay đẹp viết về ông? Có lẽ nào tôi không có một bông hồng vàng để kính dâng ông, một nhà thơ lớn, một nhà thơ đã ru hồn thế hệ chúng tôi từ tuổi ấu thơ, đã sát cánh chúng tôi trên con đường ra trận mà thơ ông như tiếng kèn thôi thúc. Và với riêng gia đình tôi, ông là người đã nâng đỡ và mang rất nhiều hạnh phúc đến cho mẹ tôi, cũng là người bố vợ đằm thắm và giàu tình cảm vô cùng cho cuộc đời em ruột tôi?
… Sóng Vũng tàu cứ mải mê vỗ suốt đêm, và từng vần thơ của tôi cũng vang lên trong tiếng sóng biển ấy. Tôi khao khát có một bông hồng vàng kính dâng ông – Nhà thơ Tố Hữu…
Châu La Việt