Chủ nghĩa cấu trúc ở miền Nam Việt Nam – Kỳ 2

1264

30.7.2017-18:10

 Nhà lý luận phê bình Huỳnh Như Phương

 

>> Chủ nghĩa cấu trúc ở miền Nam Việt Nam – Kỳ 1

 

Ferdinand de Saussure, Claude Lévi-Strauss

và chủ nghĩa cấu trúc ở miền Nam Việt Nam

(1954-1975)

Kỳ 2

 

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

 

NVTPHCM- Lịch sử ghi nhận rằng sau hai năm bị động viên vào quân ngũ, năm 1941 Claude Lévi-Strauss di cư sang Hoa Kỳ nên có dịp gặp gỡ và cùng làm việc với R. Jakobson. Bằng chứng về ảnh hưởng của Jakobson và cả của Trubetzkoy thể hiện qua một bài viết của Lévi-Strauss có nhan đề “Phân tích cấu trúc trong ngôn ngữ học và nhân học” (“L’Analyse structurale en linguistique et en anthropologie”, 1945), trong đó tác giả cho rằng, theo chân nhà ngôn ngữ học, nhà dân tộc học có thể tái tạo trong chuyên ngành của mình “một cuộc cách mạng âm vị học”…

 

Hai cuốn sách liên quan đến Claude Lévi-Strauss

           

Về ảnh hưởng của Claude Lévi-Strauss đối với khoa nhân học và dân tộc học, chúng tôi xin giới thiệu hai công trình sau đây:

           

Ở Ban Triết học Tây phương thuộc Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, Trần Đỗ Dũng, một giảng viên trẻ, biên soạn công trình Luận lý và tư tưởng trong huyền thoại (Một quan niệm văn minh mới theo Claude Lévi-Strauss) (Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, 1967). Đây có thể xem là chuyên khảo đầu tiên ở nước ta về một tác gia của chủ nghĩa cấu trúc. Trong lời giới thiệu cho công trình của Trần Đỗ Dũng, Lê Văn Hảo viết: “Trong tập sách này, lần đầu tiên các quan niệm của Lévi-Strauss về hoạt-hóa, văn minh được giới thiệu một cách quy mô và sáng sủa. Người viết giúp ta nhận định tầm quan trọng của tư tưởng và phương pháp nghiên cứu của nhà bác học này – đặc biệt là chủ nghĩa nhân bản chống lại các khuynh hướng dân tộc tự kỷ trung tâm của một số người trong giới-học phương Tây và phương pháp phân tích cơ cấu không những chỉ áp dụng cho học-ngữ, học-dân, học-huyền-thoại, mà còn có thể mở ra trước mắt các nhà nghiên cứu học-sử, học-văn những chân trời mới”[21].

           

Cuốn sách của Trần Đỗ Dũng sử dụng những tài liệu cập nhật từ những tác phẩm của Lévi-Strauss: Nhiệt đới buồn (Tristes Tropiques), Nhân loại học cấu trúc (Anthropologie structurale), Thuyết vật tổ ngày nay (Le Totémisme aujourd’hui), Tư tưởng hoang dã (La Pensée sauvage), Sống và Chín (Le Cru et le Cuit). Trong hai chương đầu (“Vấn để vật tổ”; “Tư tưởng man dã và tư tưởng khoa học”), Trần Đỗ Dũng minh họa và chia sẻ quan niệm của Lévi-Strauss rằng “vật tổ chỉ là một ảo tưởng, phát sinh trước hết từ sự hiểu sai ý nghĩa một số hiện tượng dân tộc học…”[22]. Theo tinh thần của Lévi-Strauss, “Tư tưởng ma thuật không phải là giai đoạn mào đầu, sơ khởi hay là thành phần của một thứ khoa học đang còn manh nha, trái lại ma thuật là một hệ thống rất mạch lạc và không phụ thuộc vào khoa học… […]. Vậy thay vì đem ma thuật đối lập với khoa học như có nhiều người làm, ta nên coi cả hai như hai cách hiểu biết song song, có kết quả lý thuyết và thực tiễn không giống nhau. Có thể khoa học đã thu được nhiều thành quả hơn ma thuật, dù vậy nhiều khi ma thuật cũng thành công. Trong cả hai trường hợp – khoa học và ma thuật – cách thức con người vận dụng tâm trí vẫn chỉ là một. Nói cách khác, ma thuật và khoa học không khác nhau về bản chất nền tảng mà chỉ khác nhau về đối tượng”[23]. Điều này cho thấy Claude Lévi-Strauss không cùng quan niệm với Lucien Lévy-Bruhl.

           

Nếu hai chương đầu chủ yếu lược thuật một cách khô khan những kết quả nghiên cứu của Lévi-Strauss, thì hai chương sau (“Tư tưởng huyền thoại”; “Huyền thoại và lịch sử”) sự diễn giải trở nên sinh động hơn, cho thấy Lévi-Strauss đã vận dụng phương pháp cấu trúc của Saussure trong ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu huyền thoại để đi đến ba kết luận như sau: 1) Ý nghĩa của huyền thoại không do những yếu tố riêng lẻ cấu thành mà do ở cách những yếu tố này phối hợp với nhau; 2) Ngôn ngữ huyền thoại là một thứ ngôn ngữ đặc biệt; 3) Ngôn ngữ huyền thoại phức tạp hơn ngôn ngữ thường.

           

Phân tích những huyền thoại Zuni liên quan đến nguồn gốc con người, Lévi-Strauss rút ra nhận xét: “Huyền thoại nói riêng, văn chương truyền miệng nói chung, thường có khuynh hướng lặp đi lặp lại một số hình ảnh (séquence) là cốt để làm nổi bật cơ cấu của huyền thoại. Cơ cấu này trải ra theo hai chiều dọc và ngang (structure synchro-diachronique), vì vậy khi phân tích, nghiên cứu huyền thoại ta có thể sắp xếp, bố trí những biến cố theo chiều ngang, nhưng khi đọc để lĩnh hội những ý nghĩa của huyền thoại thì phải đọc theo chiều dọc”[24]. Qua sự diễn giải của Trần Đỗ Dũng về mối quan hệ giữa huyền thoại và lịch sử, Lévi-Strauss không chỉ là người mở rộng tầm ảnh hưởng và uy tín của chủ nghĩa cấu trúc, mà còn là người đặt lại vấn đề về tính hợp lý của chủ nghĩa duy sử, đồng thời đặt nền tảng cho sinh thái luận trong khoa học nhân văn. Nhà bác học này đã góp phần “giải huyền thoại” về những dân tộc được xem là văn minh, thượng đẳng.

           

Kết luận cho cuốn sách giới thiệu quan niệm mới về văn minh của Claude Lévi-Strauss, Trần Đỗ Dũng nhận xét:

                    

“Về mặt phương pháp luận, việc chuyển phương pháp phân tích cơ cấu lĩnh vực ngữ học sang lĩnh vực dân tộc học tuy là một sáng kiến hay, đã mang lại nhiều thành quả cụ thể, song cũng đã gây nên nhiều cuộc tranh luận sôi nổi – nhất là với Paul Ricoeur. Thực ra đôi khi Claude Lévi-Strauss cũng đã có lập trường cực đoan về vấn đề này (coi phương pháp phân tích cơ cấu là phương pháp độc nhất thích hợp và gạt bỏ những phương pháp nghiên cứu và những đường lối giải thích khác).

                    

“Tuy nhiên, phải khách quan công nhận rằng những ưu điểm của ông vượt trội hẳn những khuyết điểm có thể tìm ra. Tư tưởng phong phú của ông vẫn còn nguyên phong độ và còn hứa hẹn với chúng ta nhiều khám phá mới lạ. Riêng chúng ta – những người Việt Nam còn thiết tha với công cuộc phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc – chúng ta chắc chắn có thể rút ra từ tư tưởng của ông những điều hết sức bổ ích”[25].

 Nhà nhân chủng học, dân tộc học, triết học người Pháp Claude Lévi-Strauss

 

Dấu vết của tư tưởng Claude Lévi-Strauss còn có thể nhận thấy trong một vài công trình nghiên cứu dân tộc học/ nhân chủng học ở miền Nam.

         

Công trình khá tiêu biểu trong lĩnh vực này là Nhân chủng học và lược khảo thân tộc học của Bửu Lịch (Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1970). Cuốn sách gồm có hai phần: “Nhân chủng học” vốn là một giáo trình giảng dạy cho sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn và Phân khoa Khoa học xã hội, Viện Đại học Vạn Hạnh; “Lược khảo thân tộc học” là sự phát triển và bổ sung của cuốn Vấn đề thân tộc công bố bốn năm trước (Viện Khảo cổ, Tổng bộ Văn hóa – Xã hội xuất bản, 1966). Tác giả đưa hai phần này vào chung một cuốn sách với lý do “nhiều thí dụ dẫn chứng trong Nhân chủng họcchỉ có thể lĩnh hội được nhờ những khái niệm thân tộc căn bản trình bày trong Lược khảo thân tộc học” và “thân tộc là lĩnh vực quan trọng nhất trong xã hội sơ khai”, cho nên “trong một phần nào, đối tượng và phương pháp thân tộc học thỏa mãn nhu cầu hệ thống và lòng tự ái của nhà nhân chủng học”[26].

          

Bửu Lịch phân biệt các thuật ngữ: nhân chủng học (ethnologie), nhân chủng chí (ethnographie) và nhân loại học (anthropologie). Theo ông, “nhân chủng học là khoa học về dân tộc và xã hội sơ khai”, “nhân chủng chí là sự nghiên cứu và điều tra tại chỗ những đơn vị tập thể”, còn “nhân loại học là dùng những kết quả thâu đoạt được trong nhân chủng chí và nhân chủng học và vượt lên trên để tổng hợp cao hơn nữa…”[27]. Bửu Lịch trích dẫn câu nói của Lévi-Strauss trong Nhân loại học cấu trúc để giải thích thuật ngữ “nhân loại học”: “Mục đích của nhân loại học là hiểu biết tổng quát con người trong không gian và thời gian; là tìm hiểu sự biến chuyển của loài người từ những giống xưa nhất đến những giống cận đại, và hướng đến những kết luận tiêu cực hay tích cực nhưng có giá trị cho tất cả những xã hội của loài người, từ thành thị lớn hiện đại cho đến bộ lạc Mélanésie nhỏ nhất”[28]. Từ đây hình thành hai khuynh hướng: nhân loại học văn hóa ở Mỹ và nhân loại học xã hội ở Anh.

         

Có thể nói cuốn sách của Bửu Lịch được xây dựng dưới cái bóng của lý thuyết và phương pháp cấu trúc theo Claude Lévi-Strauss. Ông vận dụng những thuật ngữ “structure” (cơ cấu/ cấu trúc) và “pattern/ modèle” (mô hình/ khuôn mẫu) để tìm hiểu những định chế xã hội và tâm lý, đặc biệt là định chế hôn nhân liên quan đến mối quan hệ thân tộc trong các xã hội khác nhau. Ông khẳng định: “phân tích cơ cấu những định chế, phong tục, động ứng… cho phép khám phá những tương đồng nào đó giữa các sinh hoạt xã hội khác nhau”[29]. Trong Nhân loại học cấu trúc của Lévi-Strauss, điều quan trọng là “khám phá trong mỗi khu vực văn hóa: hôn nhân, tư tưởng, huyền thoại… một cơ cấu. Và khám phá trong mỗi một nền văn hóa, nếu không phải là một cơ cấu của những cơ cấu, thì ít nhất một sự tương đồng, một hình thức chung cho những cơ cấu làm thành mỗi một nền văn hóa”[30].

        

Để làm sáng tỏ luận điểm trên, Bửu Lịch đưa dẫn chứng về tục lệ “phù thủy, cầu sấm và phản phù thủy trong xã hội Azandé”, mượn từ tác phẩm của Evans Pritchard. Theo dẫn chứng này, “phù phép, cầu sấm và phản phù phép làm thành một hệ thống liên tục, một chu kỳ phức tạp, trong ấy mỗi một yếu tố hay một giai đoạn chỉ có ý nghĩa lúc được đặt trong một toàn thể. Phù phép, cầu sấm và phản phù phép làm thành một cơ cấu, một thứ dây chuyền. Phù phép sinh ra chết chóc, cầu sấm xác nhận nguyên nhân của chết chóc là phù phép, phản phù phép được cầu cứu để trả thù nạn nhân…”[31]. Từ đó, có thể đưa ra nhận xét: “Vậy thoạt nhìn qua và nhìn qua một cách rời rạc, phù phép, cầu sấm và phản phù phép là một thứ mê tín đáng loại trừ. Nhưng phân tích cơ cấu cho thấy đó là một hệ thống tư tưởng hay là một tư tưởng có hệ thống mà một trong những công dụng chính yếu là duy trì và bảo tồn chính cơ cấu xã hội vậy”[32].

        

Trong cuốn sách nói trên, Bửu Lịch dành phần lớn số trang để phân tích và lý giải, dưới ánh sáng nhân loại học cấu trúc, một hiện tượng thân tộc học là phong tục khuyến khích hôn nhân giữa anh chị em họ “tréo” (cousins croisés) là anh em/ chị em con cô/ con cậu hay con cậu/ con cô trong một số cộng đồng xã hội. Tác giả cũng mô hình hóa hệ thống hôn nhân của bộ lạc Marngin ở miền Bắc Úc châu và bộ lạc Miwok ở California, Bắc Mỹ theo phương pháp phân tích cơ cấu của Lévi-Strauss. Ông trích dẫn ý kiến của Jean Pouillon khi viết lời tựa cho cuốn Nhân loại học cấu trúc: “Lévi-Strauss không hẳn là người đầu tiên, chẳng phải là người độc nhất nhận định tính chất cơ cấu của những hiện tượng xã hội, nhưng ông ta là một tác giả độc đáo vì đã xem tính chất ấy là quan trọng và đã chấp nhận một cách cương quyết tất cả những hậu quả của lập trường ấy”[33].

       

Lévi-Strauss đã “noi gương ngữ học” bởi vì “trong mọi khoa học xã hội, chỉ có ngữ học mới có thể tự hào là một khoa học tổng quát theo đúng danh nghĩa của nó”; “đối với Lévi-Strauss, cuộc cách mệnh ngữ học, hay như ông ta nói, cuộc cách mệnh âm vị học (révolution phonologique) chỉ thật sự bắt đầu với nhà ngữ học người Nga: Troubetzkoi”, khi mà âm vị học “đóng một vai trò tương tự vai trò của vật lý nguyên tử đối với khoa học chính xác”[34]. Nói theo Nicolas Ruwet, chính ngữ học, nói riêng âm vị học, khuyến cáo nhà nghiên cứu: “Trước khi nghiên cứu ngoại lai, phải nghiên cứu nội tại (étude immanente). Trước khi xác định nguồn gốc, sự quảng bá, sự phổ biến, sự biến chuyển, hay ảnh hưởng ngoại lai (ảnh hưởng của ngoại cảnh trên ngôn ngữ, ảnh hưởng của tương quan sản xuất trên ý thức hệ, ảnh hưởng của hoàn cảnh kinh tế xã hội trên hệ thống thân tộc và hôn nhân), phải ưu tiên xác định, giới hạn đối tượng, xem đối tượng ấy như tạm thời biệt lập riêng rẽ, điều ấy có nghĩa là đối tượng này có một cơ cấu của nó mà ta phải khám phá những định luật cấu tạo. Nghiên cứu nội tại đi trước khảo sát ngoại lai”[35].

 

Vậy nghiên cứu nội tại thực chất là gì? Theo tinh thần của Troubetzkoi và Lévi-Strauss, Bửu Lịch trả lời: “Nghiên cứu nội tại trước hết là nhìn nhận rằng đối tượng có một cơ cấu, một bản chất bất biến dưới mọi hình thức được lộ diện ra ngoài, mặc dù biến chuyển theo thời gian và chịu ảnh hưởng ngoại lai. Sau đó nghiên cứu nội tại như đã thấy với Troubetzkoi là khám phá liên hệ và tương quan giữa những đơn vị”[36].

        

Từ sự vận dụng phương pháp cấu trúc của ngôn ngữ học vào lĩnh vực thân tộc học, Bửu Lịch rút ra những điểm gặp gỡ sau đây:

        

“1. Về hình thức, nhà ngữ học (âm vị học) và thân tộc học (một ngành nhân chủng học) áp dụng cùng một phương pháp phân tích. Dưới hay bên kia những hiện tượng lộ diện có thể ý thức được, họ đi tìm kiếm những hình thái sinh hoạt tiềm thức.

           

2. Ngôn ngữ học và thân tộc học lấy những danh từ kết thành hệ thống làm đối tượng nghiên cứu: âm vị và danh từ thân tộc.

           

3. Nhà thân tộc và ngữ học giải thích những hình thái quan sát được bởi một số những mô hình mà họ tạo dựng một cách tự do nhưng không phải là không hợp lý. Nên lúc nói đến khái niệm cơ cấu, ta không nói đến cơ cấu của thực tại thường nghiệm mà ai cũng nhận xét được, mà nói đến những mô hình tạo dựng theo thực tại ấy…”[37].

       

Ở một chỗ khác, Bửu Lịch giải thích rõ hơn sự gặp gỡ nói trên: “Từ nhận định tính chất vô cớ của ngữ hiệu, nhà ngữ học dễ dàng mà suy ra rằng nghiên cứu một ngôn ngữ không phải là khảo cứu tương quan giữa nó và những vật tự nhiên, mà chính là xác định những quy tắc luận lý (lô-gích, HNP) kết hợp và tổ chức những ngữ hiệu hay là những đơn vị ngôn ngữ lớn hơn thành một hệ thống hợp lý, hợp lý vì nó cho phép những con người của một tập thể có thể hiểu nhau, hệ thống này không hề có một tương quan nào với những vật trong thiên nhiên. Suy nghĩ về đối tượng và phương pháp của ngữ học là khoa học xã hội tiến bộ nhất, Lévi-Strauss nuôi tham vọng áp dụng vào một vấn đề giới hạn, trước hết là vấn đề thân tộc. […] Lévi-Strauss nhìn những quy tắc hôn nhân theo kiểu mẫu của nhà ngữ học nhìn vào ngôn ngữ và xem ngôn ngữ ấy là toàn thể những biểu tượng tri thức có công dụng làm cho những con người của một tập thể nhất định hiểu được nhau và giao thiệp được với nhau”[38].

       

Sau khi Nhân chủng học và lược khảo thân tộc học được xuất bản, Vũ Lang viết bài phê bình cuốn sách rất nặng nề. Vũ Lang không đồng ý dùng thuật ngữ “nhân chủng học” để dịch “ethnologie”[39] thay vì “ethnographie” và cũng không đồng ý định nghĩa “nhân chủng học là khoa học về dân tộc và xã hội sơ khai”, bởi vì “xã hội sơ khai là nơi được các nhà nhân chủng chú ý tới chứ không phải là đối tượng duy nhất của môn này”. Theo Vũ Lang, cuốn sách của Bửu Lịch không chỉ hạn chế về phương pháp (cách dịch thuật, chú thích, dùng phép quy nạp không phù hợp, lầm lẫn sự tìm hiểu triết học của nhân chủng học và sự dùng nhân chủng học bổ túc cho luận cứ triết học) mà cả về tài liệu (quá lỗi thời); đặc biệt, “việc khai thác quá lố tài liệu của Lévi-Strauss, đã làm cho cuốn sách trở nên lệch lạc”[40].

         

Trong Chủ nghĩa cấu trúc (Le Structuralisme, PUF, Paris, 1968), Jean Piaget có lý khi cho rằng toán học, lô-gích học, vật lý học, sinh học và tất cả các ngành khoa học xã hội từ lâu đều có quan tâm đến hệ thống và cấu trúc trước khi F. de Saussure và Claude Lévi-Strauss xuất hiện. Nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa cấu trúc sẽ đương nhiên ra đời mà không cần những phát kiến của các nhà khoa học này. 

         

Lịch sử ghi nhận rằng sau hai năm bị động viên vào quân ngũ, năm 1941 Claude Lévi-Strauss di cư sang Hoa Kỳ nên có dịp gặp gỡ và cùng làm việc với R. Jakobson. Bằng chứng về ảnh hưởng của Jakobson và cả của Trubetzkoy thể hiện qua một bài viết của Lévi-Strauss có nhan đề “Phân tích cấu trúc trong ngôn ngữ học và nhân học” (“L’Analyse structurale en linguistique et en anthropologie”, 1945), trong đó tác giả cho rằng, theo chân nhà ngôn ngữ học, nhà dân tộc học có thể tái tạo trong chuyên ngành của mình “một cuộc cách mạng âm vị học”. Theo ông, có một sự giống nhau kỳ lạ giữa việc một nhà ngôn ngữ học khám phá ra cấu trúc tác phẩm văn chương với việc một nhà dân tộc học tìm thấy cấu trúc trong thần thoại; những cảm xúc thẩm mỹ mà thần thoại gợi ra cho nhà dân tộc học cũng giống như cảm xúc thẩm mỹ mà tác phẩm văn chương gợi ra cho nhà ngôn ngữ học. Vì vậy, Lévi-Strauss quan niệm dân tộc học là một nhánh của ký hiệu học (Ví dụ: một cái rìu đá là một ký hiệu, trong quan hệ với cái cưa sắt hay khẩu súng lục). Nói cách khác, dân tộc học là thuộc phạm vi ký hiệu học. Đó là lý do khiến Lévi-Strauss vận dụng phương pháp cấu trúc để nghiên cứu các thần thoại và những mối quan hệ thân tộc.

        

Quan niệm cho rằng ngôn ngữ học có thể có ích trong việc nghiên cứu những hiện tượng văn hoá là dựa trên hai quan điểm cơ bản: thứ nhất, các hiện tượng xã hội và văn hoá không đơn thuần là những đối tượng hay sự kiện vật chất mà là những hiện tượng hay sự kiện mang nghĩa, và vì thế là những ký hiệu; thứ hai, chúng không có bản chất cố định mà được xác định bởi một mạng lưới những mối quan hệ nội tại và ngoại tại.

 

(Còn tiếp)

 

____________________

 

[21] Trần Đỗ Dũng (1967): Luận lý và tư tưởng trong huyền thoại (Một quan niệm văn minh mới theo Claude Lévi-Strauss), Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, tr. 6. Lê Văn Hảo là người chủ trương viết các thuật ngữ khoa học xã hội và nhân văn không theo trật tự Hán Việt (ví dụ: văn học, ngữ học, sử học, huyền thoại học…) mà theo trật tự “thuần Việt”, có gạch nối ở giữa (ví dụ: học-văn, học-ngữ, học-dân, học-huyền-thoại…) giống chủ trương của Nguyễn Bạt Tụy. Xem thêm Nguyễn Bạt Tụy (1959):  Ngôn ngữ học Việt Nam, in lần thứ nhì, Nxb Ngôn Ngữ, Sài Gòn; Lê Văn Hảo (1965): Hành trình vào dân tộc học, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn.

[22] Trần Đỗ Dũng: Sđd, tr. 24.

[23] Trần Đỗ Dũng: Sđd, tr. 100.

[24] Trần Đỗ Dũng: Sđd, tr. 129.

[25] Trần Đỗ Dũng: Sđd, tr. 216.

[26] Bửu Lịch (1970): Nhân chủng học và lược khảo thân tộc học, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn, tr. 10.

[27] Bửu Lịch (1970); Sđd, tr. 17, 109, 110.

[28] Bửu Lịch (1970); Sđd, tr. 110.

[29] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 130.

[30] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 131.

[31] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 133.

[32] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 134.

[33] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 149.

[34] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 154, 155.

[35] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 156.

[36] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 156. Ở đây từ “đơn vị” thay bằng từ “yếu tố” có lẽ hợp lý hơn (HNP).

[37] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 190.

[38] Bửu Lịch (1970): Sđd, tr. 373

[39] Thật ra, Bửu Lịch không phải là người duy nhất dịch “ethnologie” là “nhân chủng học”. Nghiêm Thẩm, trong Nhân chủng học (giáo trình Ban Nhân văn, Đại học Văn khoa Sài Gòn, 1974, tr. 5) cũng ghi rõ danh từ “nhân chủng học” (ethnologie) và không phân biệt với anthropologie. Ở đây, chúng tôi không đề cập đến cuốn sách của Nghiêm Thẩm vì tác giả hầu như không nhắc gì đến Lévi-Strauss. Trong khi đó, hầu hết các học giả ở miền Bắc trước 1975 dịch “ethnologie” là “dân tộc học”, “ethnographie” là “dân tộc học miêu tả”.

[40] Vũ Lang (1971): “Điểm sách: Nhân chủng học và lược khảo thân tộc học”, Tạp chí Trình Bầy, số 20, ngày 15-5, tr. 63-65. Vũ Lang là bút hiệu của Nguyễn Khắc Ngữ, tác giả cuốn Mẫu hệ Chàm (Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, 1967), một công trình dân tộc học có tính  khai  phá, nhưng áp dụng phương pháp miêu tả khác hẳn phương pháp cấu trúc mà Bửu Lịch xiển dương.

 

 

TIN LIÊN QUAN:

>> Chủ nghĩa cấu trúc ở miền Nam Việt Nam (1954-1975) – Huỳnh Như Phương – Kỳ 1

>> Những giới hạn của lí thuyết văn học nước ngoài ở Việt Nam – Trương Đăng Dung

>> Bửu Đình, nhà tiểu thuyết Nam Bộ – Lê Tiến Dũng – Hồ Khánh Vân

>> Nhà văn Hữu Mai và quan niệm văn chương

>> Phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Phạm Thị Như Thuý

>> Những câu chuyện của một người yêu sách – Huỳnh Như Phương

>> Sự trở lại của đề tài chiến tranh trên văn đàn – Bùi Việt Thắng

>> Những người mở đường của Hồ Thủy Giang – Cao Hồng

>> Lê Huy Quang và những vần thơ Phải khác – Đỗ Ngọc Yên

>> Ngôn ngữ nghệ thuật thơ Văn Cao – Hà Thị Hoài Phương

>> Tổ quốc qua Bước gió truyền kỳ Phan Hoàng – Phan Thuỷ

>> Những cuốn sách của thời đại chúng ta – Nguỵ Hữu Tâm

>> Soi ánh sáng vào dĩ vãng – Lê Vũ Trường Giang

 

 

>> XEM TIẾP NGHIÊN CỨU – LÝ LUẬN PHÊ BÌNH CỦA TÁC GIẢ KHÁC…