Cõng bận đất cày – Tạp bút của Mỹ An

604

(Vanchuongphuongnam.vn) – Năm nay, cha tôi chín mươi sáu tuổi. Mừng vì cha đã cao tuổi nhưng trông dáng đi còn thẳng thớm, tinh thần minh mẫn. Mỗi sáng thức dậy cha quét nhà quét sân, pha cà phê uống, đọc báo và nghe thời sự. Chỉ có điều lo là cha bắt đầu ăn uống ít đi, mỗi bữa chỉ hơn nửa chén cơm nên phải động viên cha ăn dặm thêm trái cây, bột và sữa.

Tác giả Mỹ An 

Sống với cha cả đời chẳng bao giờ nghe thấy cha van lơn trách cứ một ai. Có lẽ, cha được sinh ra từ đất, hiền như đất, luôn chịu đựng với đời vì thế mà cha sống đơn giản lặng lẽ kín đáo, bao giờ cũng lo cho con cháu hơn lo cho mình khiến tôi se sắt thương cha đến thắc thỏm vô cùng. Và tôi nghĩ cả cuộc đời cha đã cõng bận đất cày với bao sự mặn mòi của đất theo cha suốt cuộc đời.

Sự mặn mòi của đất có từ thuở khai thiên lập địa, con người sống bằng săn bắt hái lượm, đào bới gieo trồng nên nền văn minh lúa nước và thu hái văn hóa dân tộc. Vì thế mà nói đến nghề nông, người ta thường nghĩ đến con trâu cái cày. Con trâu thành người bạn gắn bó với người nông dân “Trâu ơi ta bảo trâu này/ Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta…” Đằng sau con trâu là những bận cày dằng dặc theo người nông dân đi cùng năm tháng.

Đời cha cũng vậy! Làm lụng vất vả tất bật, một nắng hai sương, gói gửi ước mơ tương lai vào bận đất cày, cầu cho mưa thuận gió hòa để hạt mầm lên xanh, lòng đầy ước vọng.

Nghe cha kể lại hồi mới lập làng, quê tôi là một vùng đất um tùm lau lách, có nhiều thú dữ rắn rít hùm beo đến ở triền sông. Những vị tiền hiền mấy thế kỷ trước từ Đàng ngoài vào, đi dọc theo con sông Tiên chảy ngược, tới đây trồng trỉa, đào đất thành đồng, đắp bờ thành ruộng, lập xóm dựng làng,  sinh con sinh cháu.

Cha tôi thuộc thế hệ thứ mười bốn của tộc Nguyễn Văn, sinh ra trong gia đình thuần nông, nội tôi là con Thứ, theo nho học thanh thoát cao ráo trán rộng mắt to cần cù thông minh tháo vát. Nội kết duyên với bà tôi thấp bé có nước da trắng, gương mặt hiền từ phúc hậu. Ông bà sinh được cô Ả, cha tôi và chú Tuyến.

Cha tôi hồi nhỏ, học xong Yếu lược nhưng thông hiểu về kinh sử và tiếng pháp. Năm 1947 cha tham gia chính quyền cách mạng, làm ở Cơ xưởng sản xuất vũ khí Tân An Quân khu 5. Năm 1954 làm trong Ban Kinh tế huyện, phụ trách công tác Đảng vụ, Đoàn Thanh niên cứu quốc xã. Khi Hiệp định Genève ký kết về nhà trồng trọt chăn nuôi chăm sóc ruộng vườn.

Nhớ hồi mới lớn, từ tờ mờ sáng tôi theo cha dắt trâu ra đồng. Giữa cái rét đông, bọt nước nổi lên màu đen kịt, run cầm cập, đứng thổi con cúi rơm cháy cho đỡ lạnh, giúp cha mắc cái ách cày lên cổ  trâu, hai đầu ách có hai đai  gắn với hai gọng cày. Tôi dắt trâu đi, cha nắm chuôi cày theo sau, đưa roi hô thá ví cho trâu kéo đúng đường cày. Lưỡi cày chui vào lòng đất vỡ ra từng bận đất bùn đen hăng hắc thơm mùi là lạ. Cứ thế bận cày này sấp lên bận cày kia, đường cày này tiếp với đường cày khác, từ lúc sương sớm đến mở cày độ chín mười giờ trưa, trâu giỏi cũng cày được một sào. Nhìn những giọt mồ hôi trên người cha rơi xuống thấm vào từng bận cày thớ đất mà lòng nghe rưng rưng mặn chát.

Sau này, cánh diều tuổi thơ tôi đã bay khỏi những cánh đồng Cầu, Đá Lớn, Giếng Tỏ, Đồng Chùa của làng Mỹ An chợt bâng khuâng nhớ lại câu nói của cha “phi trí bất hưng, phi nông bất ổn” nên tôi gắng bước ra lũy tre làng để học thêm con chữ đợi nắng lên giữa mùa cực nhọc.

Cha tôi không làm quyền cao chức trọng nhưng ông là người tình cảm mặn nồng, chịu đựng, tin người và dí dỏm. Nhớ có lần gieo mè, người ta làm mịn đất rồi mới gieo hạt còn cha tôi cày qua, bừa lại sơ sơ rồi đánh luống gieo mè luôn. Ấy thế mà mùa nào mè cũng trúng to. Thấy lạ, bà con hỏi vì sao vậy?” Cha trả lời: – “Hạt mè cõng bận đất cày/ Trời mưa đất xốp mè này trúng to”!  Nhiều người nghe vậy, lắc đầu cho là cha nói dóc nhưng về nhà nghĩ lại thấy cha nói đúng, vì cày bừa kỹ quá đất bị nén dẽ mất độ xốp làm cho cây không thẩm thấu được chậm phát triển. Từ đó cha tôi được bà con tặng thêm cái biệt danh “Lão nông tri điền”

Cha tôi là vốn tài sản giàu quý nhất của đời tôi. Ông học không cao nhưng biết rộng, không là nhà hiền triết nhưng biết chiêm nghiệm chuyện thế thái nhân tình, không là người cao sang nhưng thâm trầm đức độ. Ông là ngọn gió mát lành, là hơi thở ấm áp, món quà ngọt ngào, là mặt trời tỏa sáng hiện hữu trong tâm hồn tôi.

Nhớ có lần, năm nào Tết đến tôi cũng chỉ ở nhà vài ba hôm, không tranh thủ thời gian thăm bà con làng xóm. Cha tôi thấy vậy cũng thông cảm cho thằng con bận việc nước. Một hôm sáng mùng một Tết cha tôi dậy sớm, thay nước trên bàn thờ rồi gọi tôi đến bảo:

– Con thắp hương bàn thờ đi rồi cha nói cho nghe một việc!

Tôi thắp hương lạy ông bà xong đến ngồi bên cha. Ông đẩy ly nước trà vừa mới pha về phía tôi, rồi hỏi:

– Cha đố con khi đau ruột thừa con gọi ai đến khiêng đi bệnh viện? Có phải con gọi làng xóm không?

Dừng một lúc nhìn tôi, cha nói tiếp:

– Dù có bận rộn thế nào trong ba ngày Tết con cũng phải sắp xếp thời gian đi thăm hỏi họ hàng bà con làng xóm một chút. Chắc con đã hiểu câu “Nhất nhật vi quan, vạn đợi vi dân” rồi!.

Tôi chỉ còn biết cúi đầu dạ một tiếng rồi im thin thít.

Kỷ niệm về cha mà tôi nhớ nhất ấy là khi thi hỏng Tú tài năm 1973, tôi như người mất hồn điên đảo. Sau khi đi cạo đầu về, trời chập choạng tối, tôi lang thang trên cánh đồng làng mới gặt, những cộng rơm nằm san sát trên mặt ruộng như một tấm thảm lụa vàng trải dài dưới trăng. Trời về khuya yên tỉnh, đèn nhà ai thấp thoáng hắt ra những vệt sáng dài lúc mờ lúc tỏ, tôi bần thần đi trong đêm, bất chợt rùng mình cảm thấy lạnh, cô đơn và ngây dại không hiểu nổi mình là ai nữa.

– Trời ơi! Khổ quá! Bớ làng!

Tôi buột miệng la lớn. Tiếng la trong đêm làm khuấy động cả không gian yên tĩnh. Nghe có tiếng la, chó trong xóm xúm nhau sủa. Một con, hai con rồi nhiều con sủa khắp làng. Nghe tiếng chó, tôi lại nghĩ: Đúng rồi chỉ có những con chó mới hiểu mình thôi, mới đáp lời mình vậy! Mấy người hàng xóm chạy ra, thấy tôi, một thằng hỏng thi cạo trọc lóc cái đầu đi giữa cánh đồng dưới trăng khuya. Được mấy bác hàng xóm dìu tôi về nhà lúc nửa đêm. Cha mẹ tôi chong đèn chờ đợi lo lắng. Mẹ thì khóc. Cha im lặng. Đầu óc tôi căng tròn, loạng choạng, vật vã, lên phản nằm một lúc đã chìm vào giấc ngủ nặng nề mê sảng. Nghe có tiếng gà gáy văng vẳng, một bàn tay xoa lên cái đầu trọc của mình, có cả tiếng nấc nhẹ của ai đó bên tai. Giật mình tỉnh dậy, hóa ra đó là bàn tay chai sạm và tiếng khóc của cha. Tôi đã mang theo hơi ấm bàn tay và tiếng khóc đó đi suốt quãng đời sau này để làm người tử tế.

Giờ cha đã về chiều còn tôi xế bóng nhưng nắng vẫn còn rải vàng trên những cánh đồng xưa, lòng quay quắt nhớ về những dấu chân cha hằn lên trên từng bận cày chỗ lồi chỗ lõm như cuộc đời người nông dân lúc có lúc không, lúc còn lúc mất, lúa đã vào bồ chưa hẳn được ăn.

Giờ tóc cha từ xanh đến bạc theo gió theo mưa đã rụng hết trên bận cày, chỉ còn đôi ba sợi bay bay trong gió chiều tắt nắng. Nhìn cha như cây sậy ven sông khẳng khiu mà cứng cỏi, lặng lẽ mà dịu dàng, tự dưng nhớ lại những tháng ngày trên đồng, đôi tay cha rục sâu trên bận cày, vun xới cho tương lai thành hàng, thành lối đến mức chân tay cha thô ráp chằng chịt những chai sạm nhọc nhằn. Tự nhiên thấy bóng cha cao như núi, dài như sông, rộng như biển cả, nhưng lại gần gũi thân thiện như những cánh đồng và con đường làng bình yên muôn thuở.

Và rồi chiều nay ngồi bên cha nhìn nắng rớt bên thềm mà lòng nghèn nghẹn thầm nghĩ: “Trên Trái đất này, không có món quà nào ngọt ngào bằng tình yêu thương của người cha…” (Cicero) và trên đời này có bao nhiêu bận cày thì cũng hơn ngần ấy lòng yêu thương của cha dành cho con.

Tiên Phước, tháng Tám năm Canh Tý – 2020

M.A