(Vanchuongphuongnam.vn) – Nhà thơ Ru-ma-ni – Leo Butnaru – đồng thời là nhà văn, nhà tiểu luận, dịch giả. Ông sinh năm 1949 tại làng Negureni, Cộng hòa Môn-đô-va. Thơ ông ra mắt lần đầu tiên vào năm 1967 trên tờ báo Tinerimea Moldovei (Tuổi trẻ của Môn-đô-va). Năm 1972, ông tốt nghiệp Đại học Ki-si-nhốp với bằng chuyên ngành Triết học và Báo chí, làm Biên tập viên tại Tinerimea Moldovei, sau đó phụ trách tuần san Literatura și arta; là biên tập viên chính của tạp chí Môn-đô-va.
Năm 1976, Butnaru xuất bản tập thơ đầu tiên “Cánh trên thế giới” (tiếng Ru-ma-ni: Aripă în lumină). Tháng 1 năm 1977, ông trở thành thành viên của Hội Nhà văn Liên Xô. Cũng trong năm đó, ông thôi việc biên tập tờ báo Tinerimea Moldovei để làm tiểu luận về tác gia kinh điển của văn học Ru-ma-ni, Mikhail Kogelnichyan, người đã đi ngược với chính sách của Nhà nước. Năm 1990 – 1993 ông từng là phó chủ tịch của Hội Nhà văn Môn-đô-va. Từ năm 1993, là thành viên của Hội Nhà văn Ru-ma-ni. Ông được trao một số giải thưởng của tổ chức này. Chủ tịch phân nhánh Ki-si-nhốp của Hội Nhà văn Ru-ma-ni, thành viên Hội đồng Liên hiệp Nhà văn Ru-ma-ni. Theo Kirill Kovaldi, người đã dịch thơ Butnaru sang tiếng Nga (trong lời tựa của cuốn sách “Cát – viên ngọc – sa mạc”) đã viết:
Leo Butnar được trang bị đầy đủ kiến thức về văn học, bước vào thế kỷ mới và dự định tự tin lan tỏa. Tên ông xứng đáng được ngân vang trong ba thủ đô: Ki-si-nhốp, Bucharest, Mát-xcơ-va. Thơ Leo Butnar hiện đại, tất cả đều ở quy cách hiện tại, giống với việc tìm kiếm đồng nghiệp và sự chia sẻ. Leo Butnaru là một nhà thơ thông tuệ. Những bài thơ của ông tự nhiên và hào hứng kết hợp những phẩm chất dường như không liên quan – suy nghĩ ẩn dụ, nhận thức hình thành cảm xúc về thế giới với sự mỉa mai, đôi khi thậm chí châm biếm. Đó là sự trỗi dậy của cảm hứng, sau đó là sự dí dỏm. Leo Butnaru là tác gia cổ điển và tiên phong, có thể nói, ông là người toàn năng.
Ông đã xuất bản khoảng tám mươi cuốn sách, bao gồm ở Bucharest, Madrid, Mát-xcơ-va, Paris, Rousse (Bulgaria), Kazan (Tatarstan), Nis (Serbia), Kiev, và Baku. Ngoài các tác phẩm của riêng mình, Leo Butnaru đã xuất bản nhiều tác phẩm dịch. Ông đã biên soạn và dịch các tuyển tập “Nga tiên phong” (gồm 2 tập), “Nga tiên phong. Kịch nghệ”, “Tuyên cáo Nga tiên phong”, “Panorama poeziei avangardei ruse” (Toàn cảnh thơ ca của Nga tiên phong), cũng như “Người tiên phong Ukraine”. Các bản dịch của Butnaru bao gồm các tác phẩm của Ivan Bunin, Ivan Turgenev, Velimir Khlebnikov, Vladimir Mayakovsky, Alexei Krucheny, Marina Tsvetaeva, Leonid Dobychin, Osip Mandelstam, Nina Habias, Jan Satunovsky, Gennady Aigi Evgeny Stepanova, Vera Pavlova, Alexander Veprev và nhiều tác giả người Nga khác, cũng như Rene Ball, Leon Briedis.
Các tác phẩm của ông đã được dịch ra gần ba mươi ngôn ngữ quốc tế.
Một số cuốn sách của ông đã được xuất bản ở Nga (bằng tiếng Nga và tiếng Tác-ta), Pháp, Đức, Bulgaria, Serbia, Ukraine và Azerbaijan.
Năm 2019, một số phương tiện truyền thông đưa tin Leo Butnaru đã được đề cử giải thưởng Nobel Văn học.
Giải thưởng:
1998 – Giải thưởng của Liên minh các nhà văn Ru-ma-ni (Thơ) cho cuốn sách “Vận mệnh đấu sĩ”
2002 – Giải thưởng nhà nước của Cộng hòa Môn-đô-va cho cuốn sách “Khiếu nại của Babylon”
2008 – Giải thưởng của Hội đồng Giám đốc và Ban Giám đốc Liên hiệp Nhà văn Ru-ma-ni “Opera Omnia”;
2013 – Giải thưởng “Constantine Stere” của Bộ Văn hóa Cộng hòa Môn-đô-va;
2015 – Giải thưởng Liên minh Nhà văn Ru-ma-ni (Bản dịch) cho “Panorama poeziei avangardei ruse”
2016 – Giải thưởng chính và Vòng nguyệt quế tại Giải đấu của các nhà thơ Ru-ma-ni ở Tomis (Neptun – Mangalia)
2013; 2018 – Giải thưởng của tạp chí Children Ra (Mát-xcơ-va);
Ông đã được trao các huân chương của Môn-đô-va và Ru-ma-ni.
Văn Chương Phương Nam hân hạnh giới thiệu đến quý độc giả chùm thơ của Leo Butnaru.
Nhà thơ Leo Butnaru
Chiếc túi
Tôi nhớ ai đó viết
thơ ca tựa cú nhảy của con chuột túi
và tôi tựa một tín đồ Thánh Tô-ma
hay đúng hơn
tự nhủ rằng bản trường ca
có thể là loài thú có túi
mang ẩn dụ
đàn con – những đứa trẻ này
giống như thơ Terza Rima*
sau đó tôi ước đoán những gì
về bản trường ca và đàn con từ chiếc túi
tôi đã viết bài thơ haiku:
Chuột túi mệt mỏi
Ngủ không chân sau. Trong chiếc túi
con châu chấu đang hát.
—
* Terza Rima là thể thơ xuất hiện đầu tiên trong Thần khúc Dan-tê, năm 1320. Thể thơ gồm ba dòng, được kết nối bởi những vần điệu kết thúc có hình mẫu aba, bcb, cdc, ded, efe… Không có số lượng ký tự nào được xác định trong dạng, nhưng những bài thơ viết bằng Terza Rima thường kết thúc bằng một dòng đơn hoặc một cặp vần. (ND)
Cốt lõi
Đã bao lần tôi cố gắng bắt đầu bài thơ
từ nơi nào đó từ đầu
luôn luôn, vô tình, tôi bắt đầu
từ khoảng giữa của vô tận, từ đó người ta cho rằng
ở đâu cũng trung tâm, không nơi nào là rìa vực.
Tôi cố gắng thay đổi triết lý lý thuyết hoặc trữ tình
về lý thuyết thực tế, thay thế
những gì tôi nên biết bằng những gì tôi nên làm,
nhưng đều có chung kết quả: mọi thứ và mọi nơi
Không có giới hạn. Không tồn tại
ngay cả bên rìa sa mạc
nơi bão cát đặt bồ công anh
trước điểm xử bắn. Vì vậy
dựa trên luật bất thành văn rằng
bài thơ luôn bắt đầu từ khoảng giữa của vô tận
(hoặc trung tâm… phần rìa và đôi khi thậm chí giới hạn)
tác giả sẽ không đặt chữ ký của mình
không phải đầu cũng như cuối bài thơ,
mà ký ngay tại đây giữa những lời thơ
– leo butnaru –
để tiếp tục hiểu chính xác ý thơ
hầm mộ cao quý của người còn sống
được lát bởi lời lẽ, một người chui trong cái kén của họ
hoàn toàn không chắc chắn khi nào
ngôn từ bảo vệ họ khỏi nguy hiểm
và nói chung là bất lực như chính bài thơ, trong đó
tất cả cố gắng để che giấu thế giới bằng nỗi sợ hãi.
Dành cho sự vuốt ve
Nói thế nào
để hiểu rõ hơn
điều gì với năm mươi bàn tay của Đức Phật?
Ví dụ
giữa hai mươi lăm bàn tay bên phải
(giữa mười hai trên
mười hai dưới)
đang vuốt ve hổ
và mèo.
Và với bốn mươi chín bàn tay còn lại làm gì? –
họ hỏi.
Ôi thật giản đơn! – những bàn tay khác,
để ve vuốt người yêu!
Cuốn sách và mặt thứ IV của bìa
Từ những cuốn sách của tôi
Có bài thơ đề cập thế giới:
“Ở đây tôi ở cùng
con chuột thí nghiệm của mình”, đang nói,
một ngón tay thò ra từ những trang sách
và chỉ vào tấm hình của tôi
ở mặt thứ IV của bìa.
Niềm an ủi
Vào những ngày đường cùng khi
tôi chỉ là một phần trăm của bản thân
khi tất cả các chủ đề xung quanh tôi
dường như tuyệt nhiên chẳng được bay bổng
vào những ngày đường cùng khi
tôi chỉ là một phần trăm của bản thân, tráng lệ
vào một trong những ngày này
không uống lấy ngụm rượu hoặc một giọt thuốc mê
và không yêu lần nữa
tôi thấy không chỉ một thế giới mà hai (thực tế
là ba – tính cả vệt sáng đó)
trong những ngày đường cùng
tương tự
tôi chỉ là một phần trăm của bản thân, tôi nói
tốt thôi, không có gì xảy ra với mình
nhưng thật tuyệt vời – nói cách khác
tôi sẽ thoát ra khỏi làn da của mình, từ chính tâm hồn tôi
từ mọi thứ được viết
bởi vì chỉ trong ngày sáng tác
vào thời gian của thơ ca
thay vì một thế giới tôi thấy hai (thực tế
là ba – tính cả vệt sáng đó) và tôi tự nhủ
vào một ngày như vậy
tôi có nên thay đổi lối sống của tôi
và nếu nó thành công – thậm chí
là cái chết vì
Chúa đã ban cho tôi, Chúa ơi, bằng thứ gì đó
trong khả năng tôi.
Khi phần nào bị đánh bại…
Khi còn trẻ, có một thứ gì đó từ sự băn khoăn ngoan cường của ông trời
đến năm ba mươi khi sự ảm đạm phần nào bị đánh bại
Tôi đoạn tuyệt quá khứ
để không rơi vào tình trạng chán ngắt
tôi tự nhủ:
“Nếu thực tế quá mơ hồ.
thì nên nói gì về giấc mơ của bạn
nếu cuộc sống thật mơ hồ
bạn có thể thêm điều gì khác về sự tự vẫn?…
Rất nhiều kẻ ngốc
trong triết lý chung phần nào bị đánh bại …”
Tôi đã nói với bản thân mình như vậy
rằng môn đệ của giận hờn chẳng bao giờ được hoan nghênh
và tông đồ của mỹ học luôn xuất hiện như
sự ngạc nhiên. Lương của bạn bao nhiêu? Họ tra hỏi.
“Có chuyện gì với bạn vậy?” tôi đáp lời
vì bí mật tiếp tục một số bài thơ
về nhận thức của tuổi trẻ của sự sống và cái chết
vượt quá những khái niệm và lời nói vô biên
vượt quá thơ ca…
Và đã
Tôi đã nói với bạn
đến năm ba mươi năm phần nào
bị đánh bại
thuyết phục
nhưng tất cả
với niềm tin
vào bản mệnh rạo rực của mình
của sự lo lắng cao độ.
Lễ nghi với một dịch giả
Giống như trong cuộc họp của hai chính khách –
với đội vệ binh danh dự
với các cuộc đàm phán sơ bộ,
với những giải thích thêm
với việc giương cờ, –
khi vị dịch giả vĩ đại bắt đầu
biến hóa với thơ ca của dân tộc khác,
cần trình diễn quốc ca cả hai quốc gia.
Ký ức, tuyết
Công viên thủ đô. Những con đường rợp bóng cây
Bị lấn chiếm bởi những tượng đài –
những nhân vật vĩ đại đang
vĩnh hằng trong giấc ngủ.
Sau cơn mưa tuyết nhẹ trước xuân
tất cả các bức tượng toàn thân, bán thân –
trong băng trắng – dường như
giống ký ức
của dân tộc bị băng bó…
(Có lẽ,
Ký ức luôn đớn đau…)
Giữa hai chiếc mặt nạ
Thơ ca không cho phép tôi thấy trước tương lai.
Để làm gì – thơ ca nói – người khác thấy bạn dần biến mất
hoặc Chúa cứu thế! Có lẽ,
thậm chí thấy mình chết hoàn toàn?
Niềm vui nào khi nhìn vào khuôn mặt truy tặng của bạn?
… Sáng nay,
trước gương,
Tôi thấy mình cạo râu nhẵn nhụi.
như thể sợ bằng cách nào
cạo vào mặt và thơ ca –
chiếc mặt nạ trong suốt của cuộc sống…
Với bản ngã trên những chiếc máy bay khác nhau
Chúng ta đi du lịch trên những chiếc xe khác nhau,
lấy vé cho các chuyến tàu khác nhau,
cái mà có cùng đích đến
nhưng đến vội vàng vào những thời điểm.
Tôi
và
bản ngã của tôi
bay trên máy bay với sự khác biệt về thời gian cất cánh,
hạ cánh
bay đến cùng một nơi
nơi hai chúng tôi sau đó đoàn tụ.
Tất nhiên,
chúng tôi rất cẩn thận làm việc này:
nếu một trong hai sẽ chết
thì ít nhất người còn lại sẽ vẫn được sống.
Đinh Thị Ngọc Hiếu dịch từ tiếng Nga