Đỗ Kim Cuông – Trang trại hoa hồng – Kỳ 3

583

22.8.2016-14:20

Nhà văn Đỗ Kim Cuông

 

>> Thư viện Đỗ Kim Cuông

>> Trang trại hoa hồng – kỳ 2

>> Trang trại hoa hồng – kỳ 1

 

 

TRANG TRẠI HOA HỒNG

(Kỳ 3)

 

TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ KIM CUÔNG

 

5

NVTPHCM- Trong cuộc sống, điều ân hận nhất của tôi với cha có lẽ là cho đến lúc ông mất, tôi vẫn chưa chịu nghe lời ông lấy chồng. Một đôi lần ông có khuyên bảo tôi về chuyện chồng con, nhưng tính tôi vốn ương bướng, trả lời cha:

 

“- Con chưa ưng ai! Cũng chẳng ai thích lấy con”.

 

Cha tôi nghe xong im lặng. Ông nhồi nửa điếu thuốc lá vào tẩu rồi hút, chẳng buồn tranh luận với tôi. Nói mãi, tôi không chịu nghe, hẳn ông chán. Chỉ nghĩ đến việc phải sống với một người đàn ông xa lạ, trong một ngôi nhà xa lạ, hàng ngày không được nhìn thấy cha tôi trong mỗi bữa ăn, không được nghe tiếng chân cha bước nhẹ trước cửa phòng mỗi sáng… Tôi phát hoảng. Tôi không lập dị. Cũng chẳng xa lạ với đàn ông. Có thể tôi là đứa ích kỉ. Từ trong tiềm thức sâu xa, tôi muốn được sống quãng đời tự do, chưa muốn lệ thuộc ai. Ngày nhỏ, tôi luôn có mẹ, có bà nội.

 

Hai người thân yêu mất đi, tôi dành trọn tình yêu cho cha tôi, cho đám bạn bè. Bạn tôi có đứa học với tôi từ thời phổ thông ở những ngôi nhà lợp tôn, tường xây gạch ở Đầm Vịt, cùng tôi vào rừng kiếm củi, kiếm quả rừng. Bốn năm học đại học, tôi có cả một đám bạn như Vân, Thơm, Hằng… Hầu như chúng nó đều đã yên bề chồng con, sự nghiệp. Còn tôi vẫn tự do như con chim sổ lồng. Những năm học đại học, tôi không phải là đứa học xoàng. Ngày tôi nhận tấm bằng tốt nghiệp, thầy Năm Bê khi ấy là hiệu phó của nhà trường khuyên:

 

“- Nếu em muốn ở lại trường làm trợ giảng, thầy sẽ xin với tổ chức”. Tôi cảm ơn thầy vì lòng tốt và thương học trò.

 

“- Em phải về nhà, làm việc với cha em” – Tôi thưa với thầy như vậy.

 

Trong bữa cơm chiều ở trại Đầm Vịt, tôi nhắc lại chuyện các thầy cô giáo muốn giữ tôi lại trường công tác với cha tôi. Ông nghe xong nói:

 

“- Cho đến giờ cha chỉ còn lại mỗi mình con. Về làm vườn với cha. Đừng vương màng chi nơi đô hội. Hoa thơm cũng có mà rắn độc cũng có”.

 

Tôi cũng nghĩ vậy, chỉ ân hận mẹ không còn nữa để có ngày nhìn thấy tấm bằng tốt nghiệp đại học của tôi. Cũng trong bữa cơm ấy, cha tôi uống rượu và cao hứng. Ông bảo:

 

“- Cả dòng họ nhà ta con là người học hành, đỗ đạt cao nhất” .

 

Tôi hỏi chen ngang:

“- Thứ nhì là ai cha?”.

 

Cha tôi cười:

“- Mẹ con mới qua Văn khoa năm thứ 2, vì yêu cha mà bỏ học. Cha cố lắm cùng chỉ hết tú tài, rồi đi lính. Nội ngoại con các cụ đều ít chữ cả”.

 

Hai năm đầu tiên học đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, thầy giáo chủ nhiệm bộ môn khoa trồng trọt của tôi là thầy giáo Hàn. Tôi biết thầy quan tâm với riêng tôi, không hẳn vì tôi xinh nhất trong số mười mấy đứa con gái trong khoa. Có thể còn lý do nữa, thầy hiểu hoàn cảnh gia đình tôi, cảnh gà trống nuôi con. Ngay những năm học đầu tiên, thấy tôi học giỏi, thầy giáo Hàn có ý giữ tôi ở lại Sài Gòn. Tôi là trò cưng của thầy. Học giỏi. Một cán bộ Đoàn gương mẫu, không gây mất đoàn kết. Những lần tiếp xúc với thầy, nhìn ánh mắt, cách thầy chăm sóc mỗi lần tôi đến nhà thầy để nghe thầy góp ý trao đổi công việc của lớp, hoặc tình cờ gặp thầy ở văn phòng khoa, tôi biết thầy có cảm tình với tôi. Và trong cái nhìn ấy còn chứa đựng sự tin yêu lớn lao hơn cả tình thầy trò. Tôi nhạy cảm dễ nhận ra điều đó. Nhưng tôi không thể yêu và lấy thầy. Từ trong sâu thẳm, thầy Hàn với tôi chỉ đơn thuần sự kính trọng của cô học trò nhỏ với người thầy có đức độ và trí tuệ hết lòng vì công việc.

 

Những năm sau giải phóng, đất nước gặp nhiều khó khăn, cuộc sống của các thầy cô giáo đều khổ. Con đường đi du học là cứu cánh cho nhiều thầy cô giáo. Họ sang Liên xô, Đông Âu khi phe xã hội chủ nghĩa còn chưa sụp đổ. Một số nước phương Tây cũng nhận du học sinh. Thầy Hàn là một trong số các thầy cô giáo đi du học ở Úc trở về với tấm bằng tiến sĩ loại ưu. Ngày thầy trở về, cô vợ xinh đẹp dạy tiếng Anh lại bỏ thầy mà đi. Cô giáo còn trẻ hơn thầy cả chục tuổi, con của một vị quan chức làm việc ở thành phố vốn từ lâu đã chê ông chồng nghèo, cù lần chỉ biết đâm đầu vào sách vở. Cô giáo lại thích giao du kết bạn với mấy cô con nhà giàu, ham đi nhẩy và uống rượu. Cuộc sống của cô không thể thích hợp với lối sống của một nhà khoa học, suốt ngày đi dạy rồi đi họp, còn chút thời gian nào lại chui đầu vào phòng thí nghiệm với đám chai lọ để truy tìm chất đioxin trong đất. Thầy không là nông dân nhưng lúa má đậu bắp, các loại hạt… thầy xếp lỉnh kỉnh trong nhà.

 

Mỗi lần đi công tác ở Nam bộ, Tây Nguyên, ra Hà Nội dự hội thảo, thầy Hàn tha về hàng chục túi lớn, túi nhỏ các loại giống. Cô giáo trẻ mắng chồng.

 

“- Đi cho lắm vào rồi lại tha rác về nhà”.

 

Có lần cô giáo mỉa mai:

 

“- Việt Nam đã là nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba thế giới. Đất nước này còn thiếu gì những ông Lương Định Của mà anh lại lao vào cho nhọc xác”.

 

Đứa con gái của thầy Hàn năm nay đã gần 10 tuổi. Ngày mẹ nó bỏ đi theo anh chàng Việt kiều từ Mỹ về, con bé mới lên 5. Thầy Hàn kể, ngày nhỏ cứ mỗi lần con bé khóc, ban đêm trở giấc nhõng nhẽo y như rằng cô giáo Anh văn lại lôi ông bố chồng ra mà rỉa rói cho hả dạ. Cha thầy Hàn cũng là một sĩ quan của quân đội, có một thời đi bộ đội, Cô vợ của thầy có dịp là móc máy: “Làm ông tướng ông tá oai vệ đâu không biết tha về cái chất độc quái ác để làm khổ con cháu”.

 

Thầy Hàn đã cố chứng minh rằng: ngày thầy sinh ra trên cõi đời này, ông bố của thầy chưa đi vào Nam đánh Mỹ. Cô vợ cãi chầy:

 

“Thì nó ngửi hơi ông nội nó. Tại ông nội nó bế ẵm cháu, hôn cháu. Anh dạy sinh hóa mà không biết à. Chất độc nó khuếch tán trong không khí, trong nước”.

 

Những cuộc cãi vã như vậy thầy Hàn luôn là người chịu thua cuộc. Âm thầm nhìn đứa con thương xót. Con bé Tuyền quả là còi cọc, hơi ngơ ngơ. Trí tuệ chậm phát triển hơn so với những đứa trẻ cùng trang lứa. Chậm nói, nhưng lại có đôi mắt đẹp, tinh anh. Cứ mỗi lần bắt gặp ánh mắt của con Tuyền nhìn, thầy Hàn như thấu hiểu con bé biết cả. Biết từ chuyện cha mẹ nó hay cãi cọ nhau. Biết bố hay ngồi hàng giờ bên tách cà phê, hút thuốc với một nỗi buồn thăm thẳm. Biết được cơn đau của ông nội vào những ngày cuối cùng khi căn bệnh ung thư mang ông đi. Lúc ông chết, một bàn tay ông vẫn nắm chặt lấy bàn tay con bé. Người nhà phải gỡ tay ông nội ra khỏi bàn tay nó. Như thể con bé biết cả chuyện mẹ nó mang những người đàn ông lạ về nhà. Tưởng con bé ngủ say, khóa trái cửa điên cuồng trong những cuộc làm tình. Lúc thị tiễn khách về mới nhận ra đứa con gái nhỏ đang ngồi ôm búp bê ở một góc nhà…

 

Nhưng tôi không thể yêu và lấy thầy Hàn. Tôi chưa có ý định lấy chồng. Tôi cần phải học, trước hết phải có được tấm bằng kĩ sư để thoả ước nguyện của cha tôi, của mẹ tôi. Trong suốt 4 năm học đại học, chưa bao giờ tôi nẩy sinh ý nghĩ học xong sẽ tìm đường ở lại trường dù đấy là thành phố Hồ Chí Minh hay ở trường đại học Thủy lợi 2 sau này. Ý tưởng ấy của tôi xa lạ với nhiều bạn gái, bạn trai khác trong lớp. Họ luôn tìm cách bám lấy Sài Gòn để hi vọng dễ tìm việc làm, có nhiều mối quan hệ, dễ kiếm chồng hoặc vợ. Hoặc xa hơn nữa là kiếm cơ hội học lên thạc sĩ, tiến sĩ.

 

“Sài Gòn là một tấm áo choàng lớn, đủ chỗ để che chở cho nhiều số phận nghèo khó cô đơn. Nơi ngập tràn ánh sáng và những niềm vui. Nơi ngự trị những kẻ giàu sang, nơi trú ngụ của những kẻ nghèo hèn. Nơi ẩn náu tuyệt vời cho những tội ác, nơi ươm trồng lòng nhân và gieo rắc những khổ đau”.

 

Đấy là lời nhận xét của cha tôi ghi trong một cuốn sổ nhỏ bìa màu hồng nhạt, cuốn sổ mang kí hiệu số 4 theo cách phân loại của tôi sau này về những trang viết của cha tôi để lại. Đây là một trong số bẩy cuốn sổ khá kì dị. Kì dị ở chỗ trong những cuốn số này in dấu bút của cả cha và mẹ tôi. Mỗi người viết một đoạn, một khúc. Nét chữ của cha tôi mực thước, nghiêm cẩn. Nét chữ của mẹ tôi tròn, mềm mại, đều tăm tắp. Những câu cha tôi nhận xét về Sài Gòn còn ghi rõ ngày tháng. Đó là ngày 27 tháng 1 năm 1973. Ngày hiệp định Pari được kí kết. Người Mỹ chính thức rút khỏi Việt Nam. Cũng là ngày tôi ra đời.

 

Nhưng cả cha tôi và thầy giáo Hàn không ai biết chuyện của tôi và Khang. Cũng có thể cha tôi biết lờ mờ về mối quan hệ này nhưng ông không tỏ rõ chính kiến. Ông muốn cuộc sống tình cảm của tôi phát triển tự nhiên chăng? Nếu không qua cha tôi, sao Khang có được địa chỉ của tôi ở Sài Gòn?

 

Khang – người lái chiếc xe commăngca những năm trước đã đưa cha con tôi về quê tìm mộ ông nội. Lúc ra đi Khang đã để quên chiếc áo bông bộ đội. Cha tôi giữ lại chiếc áo bông ấy đem về miền Nam, xem nó như một kỷ niệm khó quên. Vào đầu năm học đại học thứ hai, tình cờ Khang đến tìm tôi ở kí túc xá sinh viên. Thoạt đầu tôi không nhận ra anh. Chỉ hơi bất ngờ. Chiếc loa phóng thanh ở kí túc xá mấy lần kêu tên tôi ra ngoài phòng trực gặp người nhà. Tôi đang ở trong phòng tắm nữ, giặt giũ áo quần, một lúc sau mới ra được. Tôi cứ nghĩ cha tôi lên Sài Gòn lo công chuyện, ghé thăm tôi. Bước vào phòng khách, tôi ngớ người khi đứng trước mặt một người đàn ông xa lạ. Người ấy đã phá tan sự ngỡ ngàng của tôi.

 

“- Chị là Thủy Tiên phải không? Không nhận ra tôi sao? Tôi là Khang, lái xe đưa bác và chị về quê năm xưa đây”.

 

Tôi chữa thẹn:

“- Xin lỗi Chú, lâu quá rồi…Chú…à anh có khỏe không? Sao lại lạc vô chốn này”.

 

Tôi thực sự bối rối. Lúc kêu chú rồi lại gọi anh. Thực tình tôi không thể nào nhận ra được người lái xe năm trước gầy, đen đúa, gương mặt không hấp dẫn tôi. Bây giờ Khang đang ngồi trước mặt tôi trẻ trung, da dẻ trắng hồng, nói năng chững chạc. Anh ta đã không gọi tôi là “cô bé” mà kêu chị! Khang như thể nhận ra sự khó xử của tôi, anh nói luôn:

 

“- Tôi đang công tác ở một cơ quan hậu cần, biết Thủy Tiên đang học ở đây mạo muội ghé thăm…”.

 

Tôi đã bình tâm trở lại, vốn là một đứa nhanh nhạy trong ứng xử, giành lại thế chủ động:

 

“- Mấy năm anh Khang vẫn còn nhớ tới cha con tôi… thật quí”. – Tôi cười “- Cha tôi vẫn ở trại Đầm Vịt. Nè, Thủy Tiên bây giờ đã là sinh viên năm thứ hai, không còn là con nít nữa đâu nghe”.

 

Khang và tôi đều cười. Bữa ấy vì không có thời gian rảnh, Khang và tôi chỉ đãi nhau ly cà phê vỉa hè rồi chia tay nhau.

 

Từ đó, cứ cách vài tuần, Khang lại ra thành phố và dành thời gian ghé thăm tôi. Mỗi lần trò chuyện với Khang, tôi hiểu anh hơn. Cha Khang – một người lính công binh, ở binh đoàn Trường Sơn năm 59. Mùa xuân năm 1968, ông hi sinh ở một cánh rừng nào đấy trên cung đường A So, A Lưới. Nghe Khang kể ông gặp lính Mỹ phục kích khi chúng càn ra ngoài đường tuyến, đánh vào binh trạm nơi cha Khang đang công tác. Mẹ Khang ôm con ra thành phố, nhờ người quen xin vào làm ở nhà máy cơ khí xe lửa Gia Lâm. Vài năm sau nữa, mẹ Khang đi lấy chồng, một anh cán bộ miền Nam tập kết. Nối tiếp những đứa em cùng mẹ khác cha ra đời, cảnh nhà nheo nhóc, học hết cấp 3 Khang xin với cha mẹ đi bộ đội. Khang là con liệt sĩ được đơn vị tạo điều kiện cho đi học lái xe, rồi đi học sĩ quan hậu cần. Ngày Khang đưa cha con tôi về làng Lôi giữa đêm khuya, khi ấy anh đang lái xe cho một vị chỉ huy đơn vị. Một thời gian quen Khang, tôi có cảm tình với anh. Mỗi lần anh ra kí túc xá tìm tôi trò chuyện, thời gian tôi dành cho anh không nhiều. Chúng tôi thường hẹn nhau ở một quán cà phê nào đó. Tôi tặng anh một vài cuốn truyện mua ở cửa hàng sách tư nhân dọc theo con đường Nguyễn Thị Minh Khai… Rồi chia tay. Quan hệ giữa tôi và Khang bảo là yêu thì chưa phải… Đơn giản, tôi còn trẻ, chưa muốn sa vào chuyện yêu đương. Mối quan hệ quen biết giữa tôi và Khang, không một người bạn nào ở lớp tôi biết. Kể cả Vân và Thơm. Có lần, Vân hỏi tôi:

 

“- Mi đi gặp ai vậy?”.

“- Người nhà tao ở trại Đầm Vịt lên, đưa tiền”.

 

Tôi giấu kín Khang như giấu suy nghĩ của mình trước những điều chưa thật hài lòng, khi chưa có điều kiện bộc lộ. Giấu kín niềm vui nho nhỏ của mình mỗi khi về nhà được nằm dài trên thảm cỏ, dưới tán thông nghe cây lá trò chuyện. Lắng nghe dòng nước chảy trong khe đá rí rách như một khúc nhạc buồn suốt đêm ngày. Môi trường lính của anh, tôi xa lạ. Tôi càng ít tò mò để hỏi công việc hàng ngày của anh là gì. Tôi cũng không muốn kể cho anh chuyện học hành, thi cử, chuyện cây cối mùa màng mà ngành học bắt tôi phải nghiền ngẫm.

 

Một hôm, Khang đến tìm tôi và thông báo, khoảng 10 ngày nữa, anh và đơn vị phải đi.

 

“- Các anh đi đâu?”.

Khang nói không úp mở:

“- Sang Campuchia giúp bạn”.

“- Em tưởng bên ấy hòa bình rồi …? Chính quyền Pôn Pốt đã sụp đổ”.

 

“- Bọn anh sang giúp bạn rà phá bom mìn, thay quân…Tàn quân Pôn Pốt vẫn còn…”.

 

Nghe tới chuyện mìn, ngực tôi nhói đau. Nhưng tôi im lặng. Lúc chia tay Khang, tôi hỏi:

 

“- Anh sắp đi xa, chiều chủ nhật em muốn mời anh ăn cơm. Anh rảnh chứ?”.

 

Khang vui vẻ nhận lời.

Tôi chọn một quán ăn ở gần Đầm Sen. Cơm sinh viên đãi lính ra trận cũng đơn giản, cơm canh và một trã cá kho tộ. Ăn xong, chúng tôi đi uống cà phê rồi vào tản bộ trong vườn hoa. Sau trận mưa rào, những con đường nhỏ trong công viên bị tán cây che phủ, ẩm ướt. Râm ri tiếng ve. Thực tình tôi không biết nói chuyện gì với Khang. Tôi chẳng có tư cách gì để an ủi, động viên anh. Càng không thể buông ra những lời sáo rỗng sướt mướt chia tay một người lính lớn tuổi và từng trải như Khang trước giờ ra trận.

 

Campuchia là đâu? Vui buồn ở xứ người, tôi đâu có biết. Thêm một lần Khang ra đi, một chuyến đi giống như lần anh chia tay cha con tôi.

 

“- Có lẽ ta chia tay”. – Khang bảo vậy “- Anh phải về đơn vị chuẩn bị vài thứ”.

“- Dạ, anh về đi!”.

 

Chợt Khang bảo tôi:

“- Anh muốn bắt tay em…!”.

 

Tôi chìa bàn tay ra. Bàn tay to ấm của anh ôm gọn bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại của tôi. Chợt Khang bảo: “- Anh muốn hôn tạm biệt em… chỉ một lần”.

 

Chẳng hiểu sao, tôi lại gật đầu đồng ý. Tôi không còn nhận ra mình. Như mê mụ, như trôi nổi bồng bềnh trong một giấc mơ. Nhập nhòa dưới ánh điện mờ ảo, tôi vẫn nhận ra gương mặt anh. Khang hôn lên má tôi, lên mắt tôi. Tôi như một kẻ mơ ngủ đắm chìm trong một xúc cảm lạ lần đầu tiên có được của người trinh nữ. Đôi môi anh lướt nhẹ trên bờ môi tôi, như có một luồng điện giật nhẹ lan tỏa trên khắp cơ thể tôi.

 

Tôi không gặp lại Khang nữa. Bốn ngày sau anh lên đường sang Campuchia. Một tháng qua đi, rồi hai tháng. Sáu tháng. Tôi không nhận được một lá thư, một cuộc điện thoại nào của Khang. Anh biến mất tăm như như hòn sỏi nhỏ ném trên mặt hồ.

 

Bước sang năm học thứ ba, theo lời khuyên của cha và của thầy Năm Bê, tôi chuyển trường về học ở Phan Rang cho gần nhà. Và tôi cũng muốn xóa đi những ký ức buồn không mấy vui vẻ trong những tháng ngày sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vào năm học thứ 4, tôi và một nhóm bạn được phân công đi thực tập ở Tây Nguyên. Tôi không về Lâm Đồng, đi Đắk Lắk, Kon Tum mà chọn Pleicu, lấy cây cao su làm đề tài cho bài thực hành trong chuyến đi điền dã. Mấy tháng trời tôi và đám bạn cùng lớp lăn lộn với những người lính, những công nhân, nông dân ở nông trường 72, 74, 75 thuộc binh đoàn 15. Ngày rảnh rỗi chúng tôi vào các buôn của người Giarai, Bana, Êđê… thăm thú tìm hiểu cuộc sống của họ. Lội dọc ngang các cánh rừng bạt ngàn trồng cao su, cà phê, hồ tiêu, nghiên cứu đất đai cây trồng thu được nhiều kết quả. Các anh kĩ sư nông trường hướng dẫn chúng tôi thực tập thấy đám sinh viên đại học làm việc chăm chỉ, sử dụng thành thạo vi tính, nói thạo tiếng Anh có vẻ khoái, gạ.

 

“- Ra trường các em có muốn về nông trường công tác, các anh ở đây sẽ nhận”.

 

Một vài bạn trai trong lớp tôi, phần lớn quê miền Bắc, vui vẻ nhận lời. Tôi là trưởng nhóm thực tập đành nói nước đôi cho vừa lòng thầy.

 

“- Chúng em rất cảm ơn các bác các chú lãnh đạo nông trường, các thầy cô hướng dẫn. Chúng em xin ghi nhận để về báo cáo lại với tổ chức nhà trường”.

 

Vào những ngày cuối cùng của đợt thực tập, nông trường tổ chức cho nhóm sinh viên đi thăm quan công trường nhà máy thủy điện Ialy, lên Đức Cơ thăm vùng cửa khẩu biên giới. Buổi trưa, người dẫn đường đưa chúng tôi vào thắp nhang ở nghĩa trang liệt sĩ đã hi sinh ở chiến trường Campuchia. Giữa một khu nghĩa trang rộng mênh mông, hàng trăm, hàng ngàn ngôi mộ xếp ngay hàng thẳng lối, đều tăm tắp. Cánh sinh viên chia nhau đi cắm hương trên những ngôi mộ có tên tuổi liệt sĩ, nhiều ngôi mộ vô danh. Đến hàng mộ thứ 10, tôi sững người lại khi đọc hàng chữ trên một ngôi mộ: “ Liệt sĩ Nguyễn Khang, trung úy, chính trị viên đại đội, sinh ngày 30/04/1965. Quê quán xã X, huyện Kim Động, Hải Hưng. Hy sinh ngày 25 tháng 6 năm 1989 tại Xiêm Riệp, Campuchia”.

 

Chuyên Khang hy sinh ở chiến trường Campuchia, tôi giấu kín. Song, tôi không dấu nổi con mắt của cha tôi. Một lần, tôi về trại Đầm Vịt thăm cha, tự nhiên ông hỏi:

 

– Lâu nay con có nhận được tin tức gì của cậu Khang?

 

Tôi đành thú thật với cha:

– Anh Khang hy sinh rồi cha ơi! Con nhìn thấy mộ của anh ấy ở nghĩa trang Đức Cơ…

 

Tôi ứa nước mắt. Cha tôi hiểu tâm trạng của tôi. Ông chỉ nói:

– Thiệt tội nghiệp thằng Khang. Nó là một thanh niên tốt…

 

Một lần chú Hoài ở Sài Gòn lên thăm cha con tôi ở trại Đầm Vịt. Tôi thăm dò hỏi chú:

 

– Chú Hoài ơi! Cháu đọc sách, coi mạng nghe nói bộ đội ta chiến đấu ở chiến trường Campuchia gian khổ, hy sinh nhiều, có phải không chú?

 

Chú Hoài đang ngồi uống cà phê, nghe hỏi nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên:

– Cháu muốn biết chuyện gì ở cái xứ Chùa Tháp?

 

– Cháu muốn tìm hiểu vậy thôi. – Tôi đáp tránh chớ. – Nghe cha biểu chú đã có thời kỳ đi viết báo ở Campuchia.

 

Chú Hoài rỉ rả:

 

– Bộ đội ta ở bên ấy cực lắm. Nắng mưa đã khổ. Khổ nhất vẫn là đụng đầu với lính Pôn Pốt. Chúng cũng là người như ta, học theo cách đánh của ta. Súng đạn do người Mỹ để lại, bây giờ lại có Trung Quốc tiếp tay vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men. Chúng len lỏi trong núi, trong rừng, đánh nhau theo lối du kích. Bộ đội ta hy sinh vì bom mìn, vì phục kích nhiều lắm cháu à… Có lần cả một đoàn xe của bộ đội đi cứu dân ở các vùng địch chiếm đóng, chúng đặt mìn chống tăng, phục kích bộ đội bằng B40, B41… Cả một đoàn xe chở quân mất quá nửa. Đêm tối, quân Pôn Pốt mật tập vào nơi bộ đội đóng quân đánh tập kích. Chú đây cũng bị chết hụt mấy lần. So với đánh Mỹ ngụy ngày trước, bộ đội ta đánh Pôn Pốt vất vả hơn nhiều.

 

Tôi nghe biết vậy, không hỏi thêm. Và nghĩ, Khang và đồng đội của anh hẳn cũng là nạn nhân của những trận phục kích bằng mìn của lính Pôn Pốt.

 

Xiêm Riệp, Biển Hồ ở đâu tôi không biêt!

 

Có một mùa hè, tôi đã tìm về làng Hành Lạc, quê Khang. Người làng chỉ đường cho tôi đến nhà anh. Bà cô ruột của Khang thấy có khách lạ từ miền Nam ra thăm, đến nhà thắp nhang cho cháu, không khỏi xúc động. Nhiều ánh mắt tò mò như dò hỏi xem tôi là ai. Tôi im lặng, đặt hoa quả lên ban thờ và trả lời quấy quá: “- Người cùng đơn vị với anh Khang, đi công tác Hải Hưng ghé thăm nhà thắp hương cho đồng đội”.

 

Trên ban thờ, tôi gặp lại ánh mắt Khang đang chăm chú nhìn tôi. Tấm ảnh của anh đã được tôi chụp kỷ niệm bằng chiếc máy Nikon, quà tặng của cha ngày tôi vào đại học.

 

Hình ảnh thành phố Nha Trang nhạt nhòa dần trong ký ức của tôi những năm thơ trẻ. Chỉ đến khi tôi vào đại học, về lại Phan Rang, vào những ngày nghỉ tôi mới theo bạn bè học chung một lớp về chơi Nha Trang.

 

Thành phố đã có nhiều đổi thay. Đường Duy Tân chạy dọc ven biển nay đổi tên thành đường Trần Phú. Đường Phước Hải dưới chân nhà thờ Đá thành đường Nguyễn Trãi. Đường Nguyễn Hoàng xưa nay mang tên đường Ngô Gia Tự. Đường Hoàng Tử Cảnh đổi tên thành đường Lý Tự Trọng. Chỉ có chợ Đầm, chợ Mới là vẫn vậy. Những sạp hàng vẫn ngổn ngang bày đủ món hàng quen thuộc ở một vùng ven biển sẵn tôm, cá… Tôi tìm về ngôi nhà cũ của bác Đạo ở chân núi Đá Chẹt, tìm lên Hương Sơn Tự… Gia đình bác Đạo cũng đã chuyển đi vùng kinh tế mới Cổ Chi. Chị Thi đã là cô hiệu phó của một trường phổ thông cơ sở ở Suối Dầu. Sư cô Oanh trụ trì chùa Hưng Nguyên cũng đã sang Tokyo lập chùa, tụng kinh niệm Phật.

 

Cái muôn thuở của Nha Trang tôi gặp lại ở đây là những gốc cây xà cừ cổ thụ có u, có khúc trên các con đường rợp bóng áo trắng học trò trước cửa trường Huyền Trân và trường Võ Tánh. Đó còn là những con sóng biển sớm chiều vỗ vào bờ cát. Đám trẻ nít và người dân Nha Trang vẫn giữ thói quen đổ ra biển vào mỗi buổi sáng.

 

Tôi đi vơ vẩn trong lòng thành phố như đang thức tỉnh hồi sinh. Chỉ có những cửa hàng bách hóa, cửa hàng ăn uống của nhà nước thì ở đâu cũng giống hệt nhau. Những dãy nhà với những gian bán hàng có ô cửa vuông, bên trong là các cô gái bán hàng trao cho khách từng tô phở, từng ly cà phê và dăm ba điếu thuốc lá lẻ… Trên các con đường, các quán xá vỉa hè những quán cà phê cóc, quán bán vé số kèm theo bán lẻ thuốc lá, bán xăng nhưng phải bán lén, bán chui sợ bị bắt…

 

Tôi còn tìm về xóm nhà lá, nơi mẹ tôi đã thuê ở trong những ngày cha tôi bị bắt đưa đi học tập, cải tạo ở trại Ngân Điền. Một vài người bạn đồng lứa với tôi nay đã là chủ gia đình. Họ có chồng có con buôn bán lẹt xẹt ngoài chợ xép gần nhà, chẳng nhận ra tôi. Xóm “nhà lá” trên đường Nguyễn Thiện Thuật, theo cách gọi của những người từng ngụ cư trong xóm cũng đã có nhiều đổi thay. Xưa kia đây vốn là bãi đất hoang, nơi chó ỉa, xả rác hàng ngày. Một số người nghèo không nhà cửa, một số thương phế binh từ các nơi tìm về kiếm kế sinh nhai. Mỗi gia đình chiếm một khoảnh dựng nhà, dựng chòi che mưa nắng. Ngày trước, chẳng chính quyền nào dám đụng vào đám thương phế binh… Lâu dần nên xóm, nên phố. Vài năm trở lại đây, thành phố quy hoạch lại, những ngôi nhà của dân đều phải di dời chuyển tới những chung cư mới xây, khu định cư mới… Xóm “nhà lá” được nhà nước phân lô, xây nhà cấp bốn, phân cho cán bộ, công chức. Con đường chạy ngang qua trước cửa nhà tôi ngày trước vốn nhỏ hẹp, lầy lội sau những cơn mưa nay đã được mở rộng, trải nhựa, lát vỉa hè. Một phần của xóm “lá nhà binh” nằm ở phía bên kia đường, nhiều gia đình cũng đã thay tên đổi chủ. Những chủ nhà mới là cán bộ, công chức ở tứ xứ về đây mua đất mua nhà, xây lên những ngôi nhà cao 3, 4 tầng. Có nhà đất rộng xây 7, 8 tầng cho thuê làm khách sạn, nhà nghỉ. Căn nhà xưa cũ của cha mẹ tôi nằm sát bên đường đã bị san phẳng, không để lại dấu tích. Bây giờ, chỗ ấy người ta trồng cây xanh, đặt ghế đá dành cho người đi bộ. Tôi như kẻ xa lạ ngơ ngác nhìn những người cán bộ, công nhân viên đi làm về phóng xe máy, đi xe đạp lướt qua với dáng vẻ vội vã, tất bật. Tôi ngồi ở chiếc ghế đá ngay trên nền nhà cũ. Ngôi nhà nơi tôi từng sống là một căn nhà gỗ, bề ngang hẹp, bề dài chạy thẳng ra hướng bãi rác, có nhiều phòng được ngăn cách bằng tấm gỗ ép. Mái nhà được lợp bằng tôn Mỹ, trần thấp. Mặt trước ngôi nhà sát với con đường xây gạch. Mặt sau của ngôi nhà tường vách được thưng bằng tôn, gỗ ván đứng vững trên những trụ bê tông.

 

Tiệm may đồ của mẹ nằm ở gian ngoài, có một bộ salon gỗ dành cho khách đến may quần áo. Cạnh đấy là chiếc máy may hiệu Sinco. Gian kế là phòng ngủ, phòng bếp rộng rãi vừa để nấu nướng vừa kê chiếc bàn ăn hình tròn, còn có chỗ phơi quần áo ngoài hiên.

 

Cha tôi ngày về Nha Trang đi làm công cho một tiệm quay roneo, đánh máy trên phố. Mẹ tôi, một thời gian sau không làm nghề may vá thuê nữa mà chuyển sang buôn bán dưa cà ở chợ Đầm.

 

Sau ngày cả gia đình ly tán vào 30 tháng Tư năm 1975, mẹ con tôi phải về sống nhờ ở nhà bác Đạo. Ngày bác Đạo bán nhà đi kinh tế mới, mẹ con tôi thêm một lần dời nhà. Sư cô Oanh đã cho ở nhờ trong gian nhà kho ở chùa Hưng Sơn, gần chân núi Sạn.

 

Bao năm rồi tôi vẫn không quên ngày đầu tiên được gặp mặt bà nội. Bữa ấy, mẹ tôi đi bán hàng ngoài chợ. Tôi đang tha thẩn với con chó vàng của nhà chùa Sư cô Oanh dẫn theo một bà già lạ lẫm, đeo chiếc tay nải màu nâu. Sư cô đến gần bên tôi và bảo:

 

– Bông này! Đây là bà nội con, từ ngoài Bắc vô tìm con đó.

 

Tôi mở to đôi mắt nhìn người đàn bà xa lạ nhưng không hề cảm thấy e sợ. Bà ôm tôi vào lòng và bảo:

– Cháu bà đây ư? Đúng là con thằng Đệ rồi…! Ôi, cháu tôi xinh quá.

 

Tôi ngoan ngoãn ngồi yên trong vòng tay của bà nội.

Bà nội mở chiếc tay nải lấy ra đưa cho tôi phong kẹo mè xửng và bảo:

– Quà ông ngoại ngoài Huế gửi cho con…

 

Tôi cầm phong kẹo mè xửng trong tay, không ăn. Bà nội lại lấy ra cho tôi tấm bánh đa vừng và tự tay bẻ ra cho tôi một miếng. Sư cô Oanh đã trở lên chùa. Tôi ăn hết nửa tấm bánh đa vừng và thiếp ngủ trong vòng tay bà tôi tự khi nào không biết.

 

Từ ngày có bà nội sống trong nhà, tôi có được chỗ dựa tinh thần, không còn lo sợ bị mẹ tôi la mắng. Mẹ tôi hàng ngày đi chợ cũng yên tâm không lo phải để tôi ở nhà một mình.

Suốt ngày tôi quanh quẩn bên bà. Tôi theo bà đi chợ xép gần nhà mua rau, thịt, cá, đậu; ngồi coi bà đong rượu cho khách…

 

Bà nội tôi có nghề nấu rượu gạo. Từ ngày có bà, mẹ tôi không còn phải đi mua cất rượu gạo của mấy người nấu rượu lậu ở Ba Làng nữa. Gian nhà bếp phía sau trở thành nơi nấu rượu. Để tránh người ngoài nhòm ngó, bà tôi quây bếp ra một ô riêng, che kín bằng những tấm cót. Rượu chỉ nấu vào ban đêm, tảng sáng mẻ rượu nấu xong được đóng kín trong những can nhựa, giao cho mẹ tôi đem bán ngoài chợ Đầm. Bà tôi để lại một ít bán cất cho mấy tiệm bán lẻ, một vài can bà tôi giấu trong nhà bán cho khách quen. Tôi không biết bà tôi có thuật gì, dùng loại men đặc biệt nào… Chỉ biết rằng rượu của bà nấu nhiều người đến mua, có khi không có rượu để bán. Cùng với việc nấu rượu, bà tôi nhờ người mua về cặp heo con, giống của Mỹ. Gian bếp phía sau nhà được cơi nới mở rộng, thêm mấy tấm ghi sắt, tấm tôn, gia đình tôi có một chuồng heo. Lũ heo Mỹ được ăn no, lớn nhanh như thổi.

 

Trong một bữa cơm chiều, ngắm nghía cặp heo lớn phổng phao, bà tôi vui vẻ bảo.

“- Khi nào bán heo, có tiền. Cả nhà ta đi thăm cha con”.

 

Bà nội vào ở với gia đình tôi đã được hơn chín tháng. Mẹ tôi vẫn chưa xin được giấy phép để đưa bà đi thăm cha. Trong một lá thư gửi về, cha tôi cũng khuyên mẹ chưa nên để cho bà nội và tôi đi thăm cha. Nghe bảo chỗ ở của cha cũng chưa ổn định. Sức khỏe cha tôi vẫn ổn, ông được người ta sắp xếp cho công việc nhàn nhã. Trong một tấm ảnh đen trắng gửi về cho gia đình, tôi nhận ra cha tôi đứng cạnh một người đàn ông, tuổi đã cao. Hai người đang cầm cuốc trồng khoai lang hay cây sắn gì đó. Trong một tấm ảnh khác, cha tôi đang ngồi trên cỗ xe ngựa đi chợ, tôi còn đọc được cả một câu khẩu hiệu treo bên đường. “Toàn dân tích cực hăng hái tham gia phòng trào hợp tác hoà nông nghiệp”.

 

Tuổi thơ của tôi lặng lẽ trôi đi, sống những ngày vui vẻ bên cạnh bà nội và mẹ. Trên tấm phản gỗ rộng kê ở góc nhà cạnh cửa sổ ngó mặt ra khoảng vườn phía sau chùa. Vào những đêm hè oi bức, bà cầm cây quạt nan phe phẩy xua đi nóng bức và đàn muỗi đói vo ve từ ngoài vườn bay vào. Bà quạt cho tôi ngủ, miệng bỏm bẻm nhai trầu thuốc. Lâu lâu bà nhổ nước trầu vào chiếc ống nhổ bằng đồng để ở góc phản. Tôi lơ mơ trong giấc ngủ, ghé đầu lên đùi bà nội, cảm nhận rõ mùi cau trầu, mùi thuốc lào, mùi mồ hôi quyện vào quần áo của bà. Một tay bà xoa nhẹ lên lưng tôi, thỉnh thoảng thấy tôi quậy cựa, khó ngủ bà dỗ:

 

“- Cháu yêu, ngủ ngoan, mai sớm đi chợ bà mua quà cho nhé!”.

 

Món quà ở chợ của bà tôi cũng đơn giản. Khi thì vài củ khoai lang, bắp ngô luộc, có hôm bà mua bánh bèo, bánh hỏi, tảng bánh đúc to tướng về cả nhà ngồi chấm tương. Đi chợ, bà cầm theo cái rổ, không quên tấm vỉ cói to đúng bằng miệng rổ. Rau cỏ, thịt cá, quà bánh mua ở chợ bà cho hết vào rổ đậy kín bằng tấm vỉ cói. Hàng xóm chả ai biết được nhà tôi hôm ấy ăn gì.

 

Mỗi lần bà tôi đi chợ về, tôi lại hỏi gióng: “- Bà ơi, chừng nào đi thăm cha… ?”- Bà nội vừa nhặt rau vừa ậm ừ trả lời: “- Sắp đi rồi con… Con phải ngoan, học giỏi để báo công với bố mày!”. “- Bữa nay con được điểm 10, bà ạ!”. Tôi khoe. Tôi lại chạy ra hỏi mẹ: “- Chừng nào đi hả mẹ?”. Mẹ tôi chiều ấy có vẻ không vui, gầm gừ quát, tay bà vẫn không quên nhặt từng đồng tiền lẻ cũ nát đổ ra từ trong chiếc giỏ sau buổi đi chợ về. “- Trẻ con biết gì mà hỏi. Đi ra ngoài chơi cho tôi nhờ!”.

 

Tôi giận mẹ, ứa nước mắt, chạy ra dưới gốc cây đại trước sân nhà, khóc. Tôi nghe được cả tiếng bà nội trách mẹ: “- Nó là con nít, nhớ cha… Sao con trách con…!”.

 

Hai mươi nhăm năm sau, tôi mới được đọc những dòng cha tôi viết về cái buổi chiều cha tôi gặp lại bà tôi trong một tập vở ghi chép của ông. Những dòng ghi chép của cha tôi từ trang 68 đến trang 76, ở tập sách mang kí hiệu số 5.

 

Cha tôi viết:

 

“Vừa đúng 12 năm, y mới gặp mẹ. Chỉ muốn khóc và ôm lấy mẹ, nhưng y lại xấu hổ với vợ và con gái. Y xấu hổ cả với cô cán bộ quản giáo đang trực ở nhà khách đang để mắt dõi nhìn y và vợ con. Nước mắt vẫn chẩy ra. Mẹ y già đi và tiều tụy, tóc bạc từng mảng. Đã có bao nhiều sợi bạc vì tội lỗi của y gây ra khiến bà phải lo lắng, vất vả. Mẹ y đấy, có thời từng là cán bộ phụ nữ thôn, đi từng nhà động viên bà con làng xóm có người thân đi bộ đội. Ngày y đi B, bà cùng với mấy người bạn lên tận đơn vị động viên, dặn mỗi một điều: “Khổ mấy cũng cố mà chịu con nhé. Đừng nghĩ dại mà đảo ngũ. Về làng nhục với bà con làng nước”. Tâm thức y chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện đảo ngũ. Thằng Thắng, thằng Nuôi, thằng Hiển, thằng Thành, thằng Nam, Tý Bẹp…đều nghĩ vậy. Chẳng thế mà cả bọn từng lấy máu để kí vào tờ đơn ngày nhập ngũ.

 

Y không thể hiểu nổi, sao mẹ lại có đủ sức lực để đi bộ cả ngàn cây số vào đây tìm y, chỉ vì một câu nói của thằng Ca? Mẹ bảo với y: “Mẹ không tin con chết. Con không thể là một đứa đảo ngũ, đầu hàng giặc… Mẹ nói với thằng Ca vậy, con ơi!”.

 

Y đắng họng. Mẹ thương y nhưng mẹ đâu có biết hết được bộ mặt thật của chiến tranh. Chiến tranh là bom đạn. Là chết chóc. Là những trận bom pháo dội trên đầu. Rừng cây núi đồi bị đảo lộn trơ cành bật gốc sau những trận B52, pháo bầy hủy diệt cứ điểm. Những căn cứ pháo ở Đồng Lâm, Từ Hạ, Am Cây Sen, Hòn Vượn, Chóp Nón, 367 mỗi khi nã vào chốt ở điểm cao 360, Động Tre, Khe Trái, Đức Mẹ…thì thật khủng khiếp. Một tiếng đề pa nổ đâu đó rất xa, chỉ vài giây sau tiếng đạn bay xé gió trút xuống đầu. Lửa chớp sáng lòa. Căn hầm chao nghiêng. Đổ sập. Khói bụi mù mịt. Mùi thuốc pháo tanh hăng phảng phất mùi tỏi lẫn với mùi của tử khí….Chẳng có trang sách nào mô tả cho y đầy đủ những chuyện thảm khốc đó. Những anh cán bộ đưa quân đi B cũng chỉ nói được cho đám lính trẻ nghe những điều người ta kể lại và động viên người lính vào trận bằng những câu khẩu hiệu quen thuộc. Khi vào đến đất lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh, vượt sông Bến Hải tới được Dốc Miếu, Cồn Tiên, Rừng Thông… Lần đầu tiên, những anh lính tân binh nhìn thấy những vệt khói trắng của B52 đi thả bom. Được tận mắt nhìn thấy hàng trăm trái bom từ máy bay B57 cày xới đỉnh đèo Dốc Mèo, A Vao, truyền đơn chiêu hồi máy bay địch thả trắng rừng, lính ta lấy làm giấy chùi đít. Bom đánh vào binh trạm giấu quân, lều trại, tăng võng bị bom hất tung, người hy sinh, kẻ bị thương giữa khói bụi.

 

Những người lính giải phóng hiểu được sự nghiệt ngã, khốc liệt của chiến tranh. Có nhiều chuyện chẳng giống chút nào như lời anh cán bộ đưa quân, hay anh cán bộ tuyên huấn trung đoàn xuống nói chuyện hôm nào.

 

Mẹ y sẽ không bao giờ hình dung ra được sẽ có một ngày, y chỉ mặc độc chiếc quần đùi, lết bò lên bãi Mỹ, vừa bám địch vừa lo kiếm từng bao gạo sấy, lon hộp của lính Mỹ vứt lại để đem về góp vào nồi cháo của tiểu đội, trung đội ăn cho khỏi đứt bữa. Đại đội bộ binh của y cả tháng trời bám quanh vùng giáp ranh để giữ đất, vừa kiếm môn thục, môn vót, măng rừng, bắt từng con ốc đá ăn qua ngày… Sống chết vì câu nói của anh chính trị viên tiểu đoàn Lê Văn Duy “Dù có thành vượn, thành duộc những người lính bộ binh KX cũng phải bám giáp ranh, trở về với dân”.

 

Nhưng mẹ ơi! Nỗi cực khổ của y nào có thấm gì với nỗi đau của mẹ? Y muốn hét lên như vậy… mà không được. Mẹ y sẽ không hiểu. Vợ y dù có yêu y cũng không hiểu. Còn con Thủy Tiên, đôi mắt nó ngây thơ, y càng không thể nào gieo rắc trong lòng nó nỗi buồn. Những khuyết tật của người lớn, những sai lầm của người lớn. Và cả chuyện vui buồn của y… Trẻ con vô can. Chúng không hiểu và chưa cần hiểu. Y bất ngờ khi mẹ nói:

 

“- Con à, gặp được con như thế này là mẹ mừng rồi. Mẹ có nhắm mắt xuôi tay cũng yên lòng. Biết con trai của mẹ là người tử tế. Cha con dẫu có chết cũng mát lòng. Giời Phật còn thương nhà ta”.

 

Những ngày về làng Lôi, tôi quen được cụ Sự, một người có họ hàng xa với ông bà nội tôi. Chú Bảo, con trai cả của cụ Sự cùng tuổi với cha tôi. Theo thứ bậc họ hàng chú Bảo phải gọi cha tôi bằng anh. Chú có một cô con gái tên Hòa, làm việc ở văn phòng Ủy ban nhân dân huyện. Chị Hòa hơn tôi bốn tuổi. Gặp nhau vài lần tôi rất có cảm tình với Hòa. Mỗi khi về làng Lôi tôi về nhà chị Hòa nghỉ lại. Chị Hòa đã có chồng, sinh được hai cô con gái. Chồng chị lái xe tải Nam Bắc, bị tai nạn mất. Chỗ chị em gái với nhau, chúng tôi dễ hòa hợp. Lúc rảnh rỗi chị Hòa thường đưa tôi đi chơi mấy chợ vùng quê, vào làng nghề thủ công xem các mặt hàng mây, tre, dệt lụa, dệt chiếu. Vùng quê tôi có nhiều làng nổi tiếng với nghề chạm bạc, đan lát. Sau khi thăm dò thị trường, gửi mẫu mã, tôi thấy các mặt hàng thủ công ở đây có thể xuất khẩu được. Tôi gợi ý cho chị Hòa, dồn vốn để chị đứng ra làm đầu mối thu gom hàng thủ công xuất khẩu. Bây giờ, hàng mây tre ở làng Lôi, làng Vàng, làng Mây, An Xá, đồ mĩ nghệ đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của công ty Hoa Hồng, thu hút hàng ngàn nhân công lao động nhàn rỗi ở làng quê. Tôi còn mời thầy vào mở xưởng, dạy thợ cho chị em người làng Lôi theo cha tôi vào xây dựng khu kinh tế Đồng Tiến mới quanh vùng Đầm Vịt.

 

Tôi trở thành người thân của gia đình chị Hòa. Cụ Sự xem tôi như con cháu trong nhà. Cụ đã ngoài tuổi 80 nhưng vẫn còn khỏe mạnh, đi đứng nhanh nhẹn. Ngày còn trai trẻ cụ đi cắt tóc dạo quanh các làng trong vùng. Vài năm trở lại đây, cụ lấy ngay gốc cây si trước cổng nhà làm nơi cắt tóc. Cụ biết nhiều chuyện ở làng quê. Anh Bảo ví cụ như một pho sử sống của làng Lôi. Và cũng qua câu chuyện của cụ dần dà tôi hiểu được cuộc đời của ông bà nội tôi ngày trước, chuyện của cha tôi ngày bé sống ở làng.

 

>> Xem tiếp kỳ 4

 

 

>> XEM TIỂU THUYẾT – HỒI KÝ CỦA TÁC GIẢ KHÁC