Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Lê Đình Kỵ – Hòa quyện phẩm chất nghệ sĩ và sư phạm

332

Phan Hoàng

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nói đến Lê Đình Kỵ trước hết là nói đến một nhà sư phạm. Một nhà sư phạm không qua trường lớp chính qui nào, kiến thức chủ yếu tự học. Một nhà sư phạm với gần 60 năm gắn bó bục giảng, dạy từ cấp 2 – 3 đến đại học, cao học và hướng dẫn luận án tiến sĩ. Một nhà sư phạm mẫu mực và điển hình của nền giáo dục Việt Nam hiện đại. Nhưng ẩn sau một Lê Đình Kỵ gương mặt mô phạm là một Lê Đình Kỵ trái tim nghệ sĩ, và hai phẩm chất ấy hòa quyện trong một phong cách giản dị, tâm hồn phóng khoáng, trí tuệ uyên bác, cây bút tài hoa.


Giáo sư – nhà giáo nhân dân Lê Đình Kỵ (1922-2009).

Từ khi còn hiện diện trên bục giảng và đời sống nghiên cứu văn học, Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ đã trở thành niềm ngưỡng mộ, kính yêu của nhiều thế hệ học trò và những người am hiểu ông với hình ảnh của một nhân cách cao quý mà gần gũi, lặng lẽ và khiêm nhường. Tôi may mắn là một trong những học trò được thọ giáo thầy Lê Đình Kỵ từ lúc trên giảng đường đại học đến khi gia nhập làng báo, làng văn Sài Gòn mà ông là đại thụ.

Giáo sư Lê Đình Kỵ chẳng mấy khi chịu tâm sự về đời tư của mình và ông cũng không quan tâm đến đời tư người khác. Niềm vui, hạnh phúc lớn nhất của ông bao giờ cũng là chuyện chữ nghĩa. Ít nghĩ đến cá nhân mình mà ông lại còn có bản tính đãng trí hay quên. Đi đâu quên đó. Bỏ cái gì quên cái đó, nhiều lúc nhầm lẫn đến tức cười. Người thân gia đình và cả học trò nhiều lúc khổ sở vì cái tính hay lãng quên của ông.

Vào một sáng đầu thập niên 1990, Giáo sư Lê Đình Kỵ đến gửi bài ở tạp chí Kiến thức ngày nay nơi ông cộng tác thường xuyên. Sau khi uống trà trò chuyện với các học trò đang làm việc ở tòa soạn, giáo sư ra về đã dắt nhầm chiếc xe “cà tàng” của tôi. Xe ông và xe tôi đều là “cối” 78 màu xám cũ kỹ giống nhau. Mãi đến trưa ông mới phát hiện nhầm xe và chạy đến đổi lại. Tôi mải làm việc trong toà soạn chẳng hay biết gì. Và sau này tôi cũng mới biết lúc giáo sư lấy nhầm xe chạy không được bèn hì hục dắt đi sửa. Một kỷ niệm mà mỗi lần nhớ lại thấy thương cái sự hồn nhiên, đãng trí bác học của thầy!

Hơi đãng trí chuyện đời thường nhưng những dấu ấn thời cuộc và văn bản nghiên cứu khoa học thì Giáo sư Lê Đình Kỵ lại nhớ đến từng chi tiết. Một học trò và đồng nghiệp thân thiết của ông là nhà giáo Nguyễn Hà nhìn nhận: “Sự hiểu biết, trí nhớ của thầy bao trùm một diện rất rộng, từ triết học, văn học phương Tây đến văn học dân gian, văn học cổ điển, văn học hiện đại của dân tộc, chỗ nào thầy đề cập đến cũng đều xác đáng và tin cậy được. Đọc Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực hoặc Thơ mới – những bước thăng trầm, có thể thấy dù ghi chép tỉ mỉ đến mấy nhưng nếu không có trí nhớ tốt, không thuộc, không sống hết mình với những áng văn chương đó thì khó mà dẫn dắt, lồng ghép một cách nhuần nhị, tự nhiên đến vậy”. (Thầy Lê Đình Kỵ của chúng tôi đăng trên báo Tuổi Trẻ, 14/11/2008)

Thoạt nhìn dáng vẻ xuề xòa, ăn mặc tuềnh toàng của Lê Đình Kỵ nhiều người tưởng ông là dân Nam Bộ. Nghe giáo sư giảng bài hay đọc những bài nghiên cứu văn học lại ngỡ ông người Bắc. Đến khi gần gũi trò chuyện mới biết ông gốc Quảng Nam ở duyên hải miền Trung. Một người Quảng rụt rè nhỏ nhẹ… không hay cãi. Điều đó không có nghĩa là ông thiếu cá tính và không quyết liệt trong khoa học. “Tôi khá thoải mái trong cuộc sống nhưng trong học thuật thì khi đã đủ xác tín rồi, tôi theo đến cùng” – Giáo sư Lê Đình Kỵ tâm sự với chúng tôi. Ít lợi khẩu và hùng biện, thay vào đó ông thuyết phục người khác bằng góc nhìn, quan điểm mới lạ trong nghiên cứu văn học và sự uyển chuyển, sắc nét, quyến rũ trong từng câu chữ…

Tuổi hoa niên phiêu dạt và ham học

Hành trình cuộc đời Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Lê Đình Kỵ khá khác thường. Lần đầu tiên tôi được nghe ông thổ lộ về mình là khi cùng anh Lê Khắc Cường – Thư ký tòa soạn tạp chí Kiến thức ngày nay, cũng là một học trò của thầy Lê Đình Kỵ, đến thăm và thực hiện cuộc phỏng vấn ông tại nhà riêng ở chung cư sát chợ An Đông vào giữa năm 1996.

Lê Đình Kỵ sinh tháng 10 năm 1922 – Nhâm Tuất, nhưng giấy khai sinh đề ngày 4 tháng 4 năm 1923. Đây cũng là chuyện phổ biến lúc bấy giờ tại những vùng nông thôn nước ta. Là con trai duy nhất của một gia đình nông dân vùng Gò Nổi nay thuộc xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, Lê Đình Kỵ không may mắn có được gien học vấn gia đình nhưng lại sớm hấp thu không khí quê hương “địa linh nhân kiệt” giàu truyền thống văn hoá.

Gò Nổi quê nhà Lê Đình Kỵ có nghề dệt, mua bán tơ tằm phát triển và là nơi sản sinh nhiều nhân vật lịch sử, khoa bảng: Hoàng Diệu tổng đốc tuẫn tiết bảo vệ Hà Thành; Phạm Phú Thứ ngược xuôi đông tây ôm mộng canh tân đất nước; rồi ba vị cùng đỗ đại khoa năm 1898 trong Ngũ phụng tề phi đất Quảng là Phạm Liệu, Phạm Tuấn và Dương Hiển Tiến, Trần Cao Vân thủ lĩnh khởi nghĩa Duy Tân năm 1916; danh thần Lê Đình Đỉnh cùng hai người con trí thức yêu nước là y sĩ Lê Đình Dương – bác sĩ Lê Đình Thám;… Đây cũng là quê hương của những nhân vật nổi tiếng dòng họ Phan như: Phan Thành Tài, Phan Thanh, Phan Khôi, Phan Bôi, Phan Thao, Phan Diễn,… và các nhà cách mạng, trí thức đương thời là Nguyễn Thị Bình, Trần Thị Lý, Hoàng Phê, Hoàng Tụy, Hoàng Chúng,…

Mặc dù là “đất học, đất anh hùng” nhưng Gò Nổi trước đây là vùng quê nghèo khó. Thời thơ ấu Lê Đình Kỵ chịu nhiều thiệt thòi vật chất lẫn tinh thần. Cha của ông là một nông dân có học chút ít chữ Nho, còn mẹ như bao phụ nữ chân quê khác tảo tần một nắng hai sương. Hoàn cảnh dù gian khổ nhưng gia đình sống với nhau rất tình nghĩa và không quá khuôn phép, lễ giáo. Điều ấy đã ảnh hưởng đến tính cách Lê Đình Kỵ. Khi ra đời ông sống rất giản dị, thoải mái, không cứng nhắc và luôn hướng về sự mới lạ, tốt đẹp cho cuộc sống!

Giáo sư họ Lê kể rằng, trong nhà ông lúc nhỏ không có sách vở, thi thư gì đáng kể. Vì nhà nghèo nên ông đi học khá muộn. Nếu chỉ cần trễ thêm một năm nữa thì Lê Đình Kỵ trở thành học trò của Lê Trí Viễn, dù chỉ nhỏ hơn vài ba tuổi. Lúc người đồng hương Lê Trí Viễn tốt nghiệp sư phạm trung cấp về quê dạy thì Lê Đình Kỵ còn ở tận lớp sơ học. Năm đó Lê Đình Kỵ đã 15 tuổi. Đến ban tú tài, ông rời đất Quảng ra Huế học Tú tài I ở Trường Trung học tư thục Việt Anh, rồi vào Sài Gòn học Tú tài II ở Trường Trung học Pétrus Ký.

Bấy giờ chỉ có chuyên ban Toán – Lý và Triết. Vì học dở các môn toán, lý nên Lê Đình Kỵ chọn phân ban Triết học. Sinh thời, nhớ lại ấn tượng đầu tiên của mình ở Thành phố Sài Gòn, giáo sư cười rất tươi nói với chúng tôi: “Khi vào học trường Pétrus Ký, điều bất ngờ là tôi tưởng mình dân miền Trung nổi tiếng chịu khó học, chắc sẽ dễ dàng nổi trội trong lớp. Ai ngờ học sinh Sài Gòn học rất dữ, các môn sử, sinh họ học thuộc làu làu. Nên nhớ rằng chương trình lúc ấy học toàn bằng tiếng Pháp”.

Điều kiện ăn mặc học hành của Lê Đình Kỵ hồi ấy ở Sài Gòn rất thiếu thốn. Nam sinh đi học còn mặc áo bà ba, rất ít mặc đồ Tây, còn nữ sinh cũng mặc toàn bà ba, khác với ở miền Trung nữ sinh mặc áo dài mang guốc. Lê Đình Kỵ ham học nhưng không chí thú học để lấy bằng, mà cốt học cái gì mình thích. Ông thường đi thư viện đọc sách văn chương, triết học. Từ năm thứ hai trung học, ông đã bắt đầu nghiền ngẫm các tác phẩm của Adré Gide, nhà văn Pháp lỗi lạc sau đó đã đoạt Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1947.

Khi thi Tú tài I ở Huế, bài luận văn bằng tiếng Pháp của Lê Đình Kỵ được ông thầy khó tính là Giáo sư Phạm Duy Khiêm cho 16 điểm, một điểm số rất cao, dù đề ra khá hóc búa: “Lamartine est comme un génie qui dédaigne d’avoir du talent” (Lamartine giống như một thiên tài mà lại coi khinh tài năng). Giáo sư Lê Đình Kỵ cho biết, đề thi này thật khác với cách ra đề có phần chung chung thường thấy ở cấp trung học chuyên khoa, thậm chí ở Đại học Văn khoa. Giáo sư Phạm Duy Khiêm (1908 – 1974) quê Hà Nội, là con trai của nhà văn Phạm Duy Tốn và là anh ruột của nhạc sĩ Phạm Duy. Ông là người Việt Nam đầu tiên đỗ tú tài văn chương Pháp và khi sang Pháp du học cũng là người Việt Nam đầu tiên đỗ thạc sĩ văn phạm Pháp, nhận bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Toulouse. Phạm Duy Khiêm trở thành nhà giáo, nhà ngoại giao, nhà văn tài năng và khác biệt khi hầu hết tác phẩm của ông đều viết bằng tiếng Pháp với chủ đích giới thiệu văn hoá Việt sang trời Tây trong hoàn cảnh nước nhà còn bị nô lệ…

Một nhà sư phạm mẫu mực

Giản dị và thoải mái trong đời thường. Nghiêm cẩn và chuẩn tắc trong công việc. Đó là hai mặt trong một Lê Đình Kỵ – người thầy mà chúng tôi cũng như nhiều thế hệ học trò của ông luôn kính trọng.

Con đường đến với nghề giáo của Lê Đình Kỵ rất ngẫu nhiên. Năm 1944 sau khi đỗ Tú tài II trường Pétrus Ký ở Sài Gòn, ông định học tiếp đại học nhưng không có trường nào hợp với nguyện vọng. Trường Luật, Toán thì ông không thích. Trường Y, ông có thích đôi chút, nhưng do học lực các môn sinh, hóa đều yếu nên sức khó kham nổi. Vì vậy, chàng tú tài xứ Quảng đành rời Sài Gòn trở về cố hương dạy học tự kiếm sống.

Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương. Một cách tự nhiên, Lê Đình Kỵ tham gia phong trào yêu nước Thanh niên Phan Anh. Bằng vốn hiểu biết của một trí thức trẻ đầy nhiệt huyết trước vận mệnh dân tộc, ông tích cực hoạt động xã hội, đi nói chuyện nhiều nơi, hô hào đấu tranh đánh đuổi phát xít Nhật. Lê Đình Kỵ cùng với các bạn đồng hương Hoàng Phê, Hoàng Tuỵ, Hoàng Chúng… tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở phố cổ Hội An.

Cách mạng tháng Tám thành công, Lê Đình Kỵ được chính quyền Việt Minh phân công làm công tác thông tin tuyên truyền, rồi vào bộ đội chống Pháp tái xâm lược. Ở trong quân ngũ, ông tranh thủ học tiếng Bạch thoại để làm phiên dịch cho các cố vấn Trung Quốc. Ba năm sau, vì lý do sức khoẻ, ông ra quân và quay lại với nghề giáo, vào Quảng Ngãi dạy học cùng với Lê Trí Viễn ở Trường Trung học kháng chiến Lê Khiết. Trong điều kiện vô cùng khó khăn, tài liệu sách vở và các phương tiện giảng dạy thiếu thốn trầm trọng, Lê Đình Kỵ cùng đồng nghiệp đã phấn đấu vượt bậc, có nhiều đóng góp đối với của ngành giáo dục ở vùng tự do Nam Trung Bộ thời chín năm chống Pháp.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, Lê Đình Kỵ tập kết ra Bắc và dạy cấp 3 trường Nguyễn Trãi ở Hà Nội, nơi có học sinh phần lớn là người miền Nam. Ba năm sau, nhờ vốn tiếng Nga tự học của mình, ông được chuyển lên dạy đại học. Năm 1957, Hoàng Ngọc Hiến về Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thì năm sau ông đề nghị Chủ nhiệm khoa Hoàng Xuân Nhị mời Lê Đình Kỵ về cùng dạy. Tiếp sau đó, các nhà giáo nổi tiếng như Hoàng Như Mai, Trương Chính, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ… cũng lần lượt được mời về giảng dạy ở đây.

Sau ngày đất nước hòa bình thống nhất năm 1975, Lê Đình Kỵ được cử vào Thành phố Hồ Chí Minh thỉnh giảng Trường Đại học Văn khoa. Đến năm 1980, ông chuyển hẳn từ Hà Nội vào dạy trường này, lúc ấy mới đổi tên thành Trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, nay là Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Một học trò và đồng nghiệp gần gũi với ông ở trường này là Giáo sư – Tiến sĩ Huỳnh Như Phương trong Lời giới thiệu Tuyển tập Lê Đình Kỵ (Nhà xuất bản Giáo Dục – 2006) có viết: “Hơn nửa thế kỷ gắn bó với ngành giáo dục, Giáo sư Lê Đình Kỵ đã góp phần đào tạo hàng ngàn học sinh, sinh viên. Sau khi về hưu, ông vẫn tiếp tục đến lớp giảng các chuyên đề đại học và sau đại học, đồng thời hướng dẫn thành công nhiều luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ. Trong 40 năm miệt mài trước tác, ông đã hoàn thành và cho công bố 19 công trình nghiên cứu với gần 5000 trang sách. Đó là chưa kể hàng trăm bài viết đã đăng trên các báo, tạp chí ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác. Những đóng góp của ông trên lĩnh vực văn hóa – giáo dục và các hoạt động xã hội đã được ghi nhận một cách xứng đáng”.

Còn nhà giáo Nguyễn Hà trong bài viết nêu trên cũng cho hay: “Đối với các thế hệ học trò, thầy vừa nghiêm khắc, đòi hỏi cao về học thuật, nhất là về chuyện viết lách nhưng đồng thời cũng rất khoan hòa, độ lượng, hết lòng giúp đỡ trong nghề nghiệp và cuộc sống. Nếu như trong phê bình thơ, thầy có công phát hiện và động viên kịp thời những Phan Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Thanh Thảo… mà sau này họ trở thành những nhà thơ có tên tuổi thì trong đào tạo, những người được thầy dìu dắt và đánh giá cao, nay đều thành danh cả, như Giáo sư Huỳnh Như Phương, Phó Giáo sư Nguyễn Thị Thanh Xuân, Phó Giáo sư Lê Tiến Dũng…”.

Với những đóng góp to lớn của mình cho sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy văn học, Lê Đình Kỵ xứng đáng là một trong những tên tuổi hàng đầu của ngành giáo dục – đào tạo và lý luận phê bình nửa sau thế kỷ

Không qua Giáo sư I, Lê Đình Kỵ được Nhà nước phong thẳngGiáo sư II năm 1984 và, cũng không qua danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, ông được phong thẳng Nhà giáo Nhân dân năm 1988 và được tặng Huân chương Lao động hạng Nhất năm 1995. Ngoài ra, ông còn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nhiều khóa liền là Ủy viên Ban Chấp hành, Chủ tịch Hội đồng Lý luận – Phê bình của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Một nhà nghiên cứu văn học hàng đầu với đỉnh cao nghiên cứu về Kiều

Giảng dạy và nghiên cứu phê bình văn học luôn hỗ trợ cho nhau. Khi vừa bước lên bục giảng đại học, Lê Đình Kỵ cũng bắt đầu nghiên cứu, viết lý luận phê bình. Năm 1959, ông có bài phê bình văn học đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn Nghệ. Đó là bài viết về truyện ngắn Con cá song của nhà văn trẻ Anh Đức vừa được giải thưởng của tạp chí này cùng với truyện ngắn Cái hom giỏ của nữ nhà văn trẻ Vũ Thị Thường. Trên đà ấy, mấy tháng sau ông lại có bài Từ ấy và phong trào Thơ mới cũng được đăng trên Văn Nghệ. Và đến bài viết này, tài năng phê bình văn học của Lê Đình Kỵ mới thực sự được giới văn học chú ý đến.

Bài viết Từ ấy và phong trào Thơ mới vốn ban đầu Lê Đình Kỵ đặt tên là Từ ấy và Thơ mới. Nhưng khi biên tập, nhà thơ Xuân Diệu ngại nên sửa đề bài. Vì sao Xuân Diệu ngại? “Số là Xuân Diệu trước đó có đưa ra luận điểm “Từ ấy thoát thai từ Thơ mới”. Chữ “thoát thai” chưa được ổn lắm, nhưng hiện tượng tiếp thu, kế thừa giữa tập thơ Từ ấy của Tố Hữu và Thơ mới cũng là chuyện bình thường thôi. Tuy nhiên, bấy giờ Xuân Diệu bị một số người cho là hữu khuynh” – Giáo sư Lê Đình Kỵ thổ lộ về đời sống văn nghệ nhiều bó buộc ở miền Bắc.

Nhận thấy tài năng phê bình văn học của Lê Đình Kỵ, bốn nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên và Tế Hanh đồng thời cũng là những “ông lớn” của đời sống văn học bấy giờ đã nhiệt tình động viên, khuyến khích ông tiếp tục viết. Cũng ngay trong năm 1959 đáng nhớ ấy, lần đầu gặp Lê Đình Kỵ ở tòa soạn Văn Nghệ, nhà thơ Chế Lan Viên nói với hai nhà thơ Xuân Diệu và Hoàng Trung Thông rằng: “Tưởng Kỵ còn trẻ, hóa ra cũng là người cùng thế hệ với mình”! Lúc đó Hoàng Trung Thông đang là Tổng biên tập còn Xuân Diệu là Uỷ viên Ban biên tập báo Văn Nghệ.

Trong bài viết Một đời lao động tận tụy và sáng tạo in trong sách Lê Đình Kỵ: Phê bình nghiên cứu văn học (Nhà xuất bản Giáo Dục, 1998), Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã nhận định: “Lê Đình Kỵ hầu như chỉ viết về những gì mình thích, chỉ nói về cái hay, cái đẹp của thơ, của văn chương. Văn phong của anh biểu đạt cách cảm nghĩ của anh, tâm hồn của anh, sáng sủa, khúc chiết, đồng thời cũng rất uyển chuyển, biến hóa, có duyên. Đọc Lê Đình Kỵ, lắm khi người ta bị lôi cuốn không chỉ bởi nội dung mà còn bởi cách trình bày, bởi những ý, những chi tiết thú vị, bởi văn của người viết. Với sự nhạy cảm và tinh tường quý hiếm ở một nhà nghiên cứu, anh Lê Đình Kỵ thực sự là một người đồng sáng tạo trong tìm hiểu các giá trị thi ca, các giá trị văn chương mà anh đã dành nhiều thời gian để suy ngẫm, chiêm nghiệm, phát hiện ra những vẻ đẹp mới và giới thiệu với mọi người một cách hứng thú và xúc động”.

Sau hơn nửa thế kỷ hoạt động văn học, Lê Đình Kỵ đã xuất bản các tác phẩm tiêu biểu như: Các phương pháp sáng tác, Đường vào thơ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, Tìm hiểu văn học, Thơ Tố Hữu, Nguyên lý văn học, Phương pháp sáng tác, Thơ mới – những bước thăng trầm, Trên đường văn học (2 tập), Nghiên cứu phê bình văn học… cùng nhiều bài nghiên cứu đăng rải rác trên báo chí. Trong số đó, ông tỏ ra rất tâm đắc với tác phẩm Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, bắt đầu viết năm 1965, in lần đầu năm 1970, đến nay đã được sửa chữa tái bản nhiều lần. Đây cũng là tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp văn học của Lê Đình Kỵ. Không dừng ở nghiên cứu mà ông như người đồng sáng tạo mang đến cho người đọc cái hay cái đẹp mới từ tác phẩm. Đây là một đoạn văn tài hoa của ông: “Kim Trọng là người tình nhân số một, không chê trách vào đâu được. Kim Trọng mới nghe tiếng tăm Kiều, từ Liêu Dương cách trở đã trộm nhớ thầm mong, nhác trông bóng Kiều từ xa đã thấy mặn mà, thoáng gần lại đã chập chờn cơn tỉnh cơn mê, gặp mặt rồi thì tìm mọi cách để được gần, khi biết Kiều lưu lạc thì đi đến cùng trời cuối đất tìm cho kỳ được mới thôi. Nếu Từ Hải đã tát cạn bể oan cho Kiều, thì tình yêu của Kim Trọng sẽ trả lại cho Kiều cái mà Kiều đã mất: Lòng tin ở cuộc sống và ở chính mình. Bản án của đời Kiều mà Đạm Tiên và Tam Hợp đã từng đọc lên bằng những lời ma mị, Từ Hải đã đập tan nó bằng những đạo quân, và Kim Trọng bằng tấm lòng của mình”.

Đánh giá về công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, một chuyên gia hàng đầu về Truyện Kiều là Giáo sư Nguyễn Lộc đã nhìn nhận: “Giáo sư Lê Đình Kỵ chuyên giảng dạy lý luận văn học, đồng thời là một nhà phê bình thơ quen biết. Chính lý luận văn học đã giúp anh tìm được một hướng tiếp cận Truyện Kiều mới mẻ và khả năng thẩm thơ, bình thơ giúp anh truyền đạt được cái hay, cái đẹp trong nhiều câu thơ mà người ta có thể thuộc nhưng không phải ai cũng cảm nhận, thấm thía hết được” (Đọc lại “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực”, in trong sách Lê Đình Kỵ: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, 1992). Còn Giáo sư Huỳnh Như Phương trong bài viết nói trên cũng đã nhìn lại tác phẩm đtfợc công bố từ mấy thập kỷ trước: “Những trang hay nhất của cuốn sách được dành để viết về thế giới nhân vật đa dạng và sống động của Nguyễn Du, từ Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải cho đến Tú Bà, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh… Với giọng văn uyển chuyển và nhuần nhị, những trang sách này có thể xem là một dẫn chứng điển hình về sự tiếp nhận Truyện Kiều từ chỗ đứng của một con người hiện đại có tầm văn hóa cao. Và từ niềm xác tín trên con đường nghiên cứu của mình, Lê Đình Kỵ đã bày tỏ một thái độ nồng nhiệt đối với cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du trong việc nhìn nhận thế giới và con người. Ông viết: “Sức mạnh của câu thơ Kiều không hẳn là ở chỗ khám phá ra những hình tượng chưa ai hình dung được, những ý nghĩ chưa ai ngờ tới, mà là ở cái tình người, tình đời thăm thẳm mà Nguyễn Du đưa vào cái nhìn, cái nghe, cái nghĩ của mình, vào một vầng trăng, một dòng suối, một ngàn dâu, một tiếng chim, một ngọn lá. Đến đá dưới ngòi bút Nguyễn Du cũng mềm đi trước những đau khổ của con người”. Đằng sau đoạn văn này có cả bề dày của một quá trình suy ngẫm về văn học”.

Nói về tác phẩm này, Giáo sư Lê Đình Kỵ từng cho chúng tôi biết: “Trong lần đầu in cuốn Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, xảy ra một chuyện khá ngộ. Tên sách tôi để như hiện nay, nhưng nhà xuất bản thì cứ đòi đổi cho kỳ được thành tựa Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du! Thêm mấy chữ mà vấn đề khác đi rồi. Nguyên nhân là do có một vị khả kính đã khẳng định Nguyễn Du là “hiện thực phê phán”(?). Tất nhiên là tôi không bao giờ đồng ý thêm cụm “của Nguyễn Du”.

Những tai nạn văn học và “Phật thì bao giờ cũng hiền hơn sư sãi”

Trên bước đường nghiên cứu văn học, giáo sư cũng gặp khá nhiều “tai nạn”. Năm 1963, cuốn Các phương pháp sáng tác của Lê Đình Kỵ có đưa ra luận điểm về tính người, về chủ nghĩa nhân đạo (thông qua tính giai cấp), luận điểm về mối quan hệ phức tạp giữa thế giới quan và sáng tác. Như ông cho rằng sau Cách mạng tháng Tám, thế giới quan của Nguyễn Tuân thay đổi nhưng phong cách thì không khác trước mấy. Cuốn sách đã bị phê phán nặng nề và kéo dài trên tạp chí Nghiên cứu Văn học là: Bị ảnh hưởng của “xét lại”, xem nhẹ tác dụng của thế giới quan đối với sáng tác!

Đến năm 1974, Lê Đình Kỵ gửi đăng trên tạp chí Tác Phẩm Mới bài Hải Triều – những bước xung kích cùng với một loạt bài có tính chân dung văn học về các nhà phê bình nghiên cứu Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi… Ông viết về người chiến sĩ tiên phong của Đảng Cộng sản về lý luận văn nghệ, ngỡ là “quá bảo đảm”, ngờ đâu cũng bị phê rằng đề cao cá nhân Hải Triều là có dụng ý…! Nhà thơ Chế Lan Viên ra sức chống đỡ cho Lê Đình Kỵ, vì trách nhiệm là đã biên tập bài đó cho tạp chí Tác Phẩm Mới, và cũng vì lẽ công bằng. Nhà thơ Chế Lan Viên thanh minh: “Nói xung kích thì vận vào người lính thường cũng được, có gì là đề cao Hải Triều”.

Nhớ lại tai nạn văn chương ấy, Giáo sư Lê Đình Kỵ bảo rằng: “Kể ra tôi cũng được “an ủi” ít nhiều, vì cùng bị phê phán trong đợt ấy là một loạt nhà văn. Nguyễn Khải bị phê phán về một số bài đăng trên trang nhất báo Nhân Dân. Vũ Tú Nam với truyện Văn Ngan tướng công. Vũ Thị Thường thì về Cái lạt. Một số tác phẩm khác bị phê là “hình tượng hai mặt”. Trừ khi có ý đồ xỏ xiên thì không kể, còn bây giờ giới am hiểu dễ dàng chấp nhận tính nhiều mặt, nhiều tầng ý nghĩa của hình tượng. Nhưng lúc đó không phải là chuyện đơn giản. Tôi kể ra đây không phải để than vãn, mà để chúng ta càng thấm thía hơn, với chủ trương đổi mới tư duy, nó kịp thời và bức xúc đến chừng nào”.

Ông còn tâm sự: “Lúc ấy, người có thiện chí thì nói đùa là tôi bị “ma đưa lối quỷ đưa đường”. Nhưng biết làm sao được. Đơn giản vì tôi luôn quan niệm là phải cố gắng tiếp cận văn học đúng với văn học. Văn học mang ý nghĩa chính trị, nhưng không nên chính trị hóa văn học, không nên để rơi vào xã hội học dung tục. Tôi tâm niệm đã gọi là văn học thì phải có thẩm mỹ, có văn. Kiến thức lý luận không thiếu được, nhưng sớm muộn có thể thu nhận, lĩnh hội, đồng hóa được, còn văn thì phải tự mình đào luyện lấy, đồng thời cũng phải có năng khiếu nhất định. Khoảng năm 1965, ông Lê Duẩn có phát biểu phê phán Nho giáo ở một số mặt, và khẳng định chủ nghĩa nhân đạo và tính người trên lập trường giai cấp. Tôi còn nhớ sau đó, anh Vũ Khiêu gặp tôi nói rất cởi mở, chân tình: “Mừng cho anh tấc riêng như trút gánh đầy đổ đi”. Anh Chế Lan Viên lại có cách nói quen thuộc: “Phật thì bao giờ cũng hiền hơn sư sãi”. Còn anh Huy Cận thấy tôi boăn khoăn thì thông cảm: “Rồi cuộc sống sẽ trả lời thôi”. Đúng như thế, sau này lúc ta đổi mới tư duy, cuộc sống đã đưa lại lời giải đáp”.

Vâng, lời giải đáp từ thời gian và cuộc sống đã chứng minh cho sự đúng đắn cho những kiến văn khoa học của Lê Đình Kỵ!

Sau gần mười năm lâm bệnh nặng, Giáo sư Lê Đình Kỵ đã từ trần vào lúc 9 giờ 40 ngày 24 tháng 10 năm 2009 tại nhà riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 88 tuổi. Thầy ra đi nhưng nhân cách và sự nghiệp sáng ngời của một con người tài năng, tận tuỵ và nhân hậu vẫn còn mãi trong đời sống giáo dục và văn học nước nhà, đặc biệt là những trang viết sâu sắc và quyến rũ về Truyện Kiều sẽ luôn âm vọng trong lòng người đọc.

P.H

Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Lê Đình Kỵ quê ở xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Ông được phong hàm Giáo sư, chuyên ngành văn học; Nhà giáo Nhân dân; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nhiều khóa liền là Ủy viên Ban Chấp hành, Chủ tịch Hội đồng Lý luận – Phê bình của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.

Tác phẩm:

Phương pháp nghệ thuật, Nhà xuất bản Giáo dục, 1962; Đường vào thơ (Tập I, Tập II), Nhà xuất bản Văn học, 1969; Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1970; Cơ sở lý luận văn học (tập 4), Nhà xuất bản Giáo dục, 1971; Sáng mắt sáng lòng, Nhà xuất bảnVăn học, 1978; Thơ Tố Hữu, Nhà xuất bản Đại học, 1979; Nguyên lý văn học, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1986; Phương pháp sáng tác, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1986; Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ – Ngụy, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1986; Thơ với Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nhà xuất bản Cửu Long, 1988; Hiểu đúng đắn Truyện Kiều, Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1988; Thơ mới những bước thăng trầm, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1988; Trên đường văn học (2 tập), Nhà xuất bản Văn học, 1995; Nghiên cứu phê bình văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998…

Giải thưởng:

Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.