Giới thiệu chân dung thơ Phạm Tiến Triều

1669

(Vanchuongphuongnam.vn) – Người cầm bút phải có sứ mệnh mang văn hóa của dân tộc mình đến với mọi người. Bởi xét đến cùng, cội rễ của thơ ca phải xuất phát từ ngọn nguồn văn hóa của dân tộc mình sinh ra. Dòng chảy ấy là bất tận. Nhà thơ phải biết hòa điệu giữa dòng chảy văn hóa dân tộc với điệu hồn cảm xúc của cá nhân mình.

Quan niệm văn chương Phạm Tiến Triều

Nhà thơ PHẠM TIẾN TRIỀU

Sinh ngày: 10/07/1979; Dân tộc: Mường.

Quê quán: xã Phú Nhuận, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hoá.

Hiện đang sinh sống, dạy học và hoạt động sáng tạo nghệ thuật tại Thanh Hóa.

Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Thanh Hoá.

Hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Tác phẩm đã xuất bản:

1) Thơ tình gửi mùa đông – Tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 2002.

2) Ta là người của núi  – Tập thơ, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2014.

3) Mùa bông trăng – Tập thơ, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội 2016.

4) Người mường Trại – Tập thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội 2019.

5) Bùa lá – Tập thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội 2020.

Giải thưởng văn học:

– Giải Ba cuộc thi viết Đất và người xứ Thanh nhân dịp Năm du lịch quốc gia 2015 trên Báo Văn hoá và Đời sống với bút kí “Trôi giữa đại ngàn”.

– Giải C Giải thưởng Văn học nghệ thuật năm 2016 – Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập thơ Mùa bông trăng”.

– Giải Nhì về thơ (Không có giải Nhất) Cuộc thi Sáng tác Văn học trẻ trên Tạp chí Xứ Thanh năm 2018 cho chùm thơ: Bùa lá”; “Lũ trẻ với những chú chim non”.

– Giải C Giải thưởng Văn học nghệ thuật năm 2020 – Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam cho tập thơ “Bùa lá”.

Giải B Giải thưởng Văn học nghệ thuật năm 2020 – Hội văn học nghệ thuật Thanh Hóa cho tập thơ “Bùa lá”.

– Giải Nhì cuộc thi kí Thanh Hóa chung sức xây dựng nông thôn mới năm 2020 trên Tạp chí Xứ Thanh cho bút kí “Khát vọng xanh”.

Văn chương Phương Nam xin giới thiệu chùm thơ mới của anh, mời các bạn cùng đọc:

Bùa lá

 

Những chiếc lá thương lá yêu

cho anh câu xường hẹn buổi gặp nhau bên suối

để anh biết em đêm nào cũng bứt lá đếm yêu

lá quấn thương vào nhớ

lá quấn em vào anh

một đời

 

câu xường thương theo lá uốn trên môi

dẫn anh theo lối về mường em ngày hội

dắt vía anh vượt ba núi bảy mường

vía quấn vào chân thang

vía lang thang thung núi

quên lối, quên đường

 

em giận anh nỗi hờn loang câu xường

khi anh không kịp ngỏ lời xường yêu đêm trăng

để lá thương lá nhớ

lá rơi trên tay em

lá giận, lá hờn

 

ngày em về làm dâu, làm con

những chiếc lá xoè vòng tay ôm em vào lòng núi

lá giữ vía em không đi lạc mường

giữ chân em cho chắc

cầm tay em cho bền

 

ngày ngày em lên nương

những chiếc lá cho bông yêu đơm nụ

cho bông thương kết hoa

đất mường ta kết trái

để em không phải bứt lá đếm yêu

cho lá quấn thương vào nhớ

cho lá quấn em vào anh

một đời…!

 

Dâng

 

Cha mẹ sinh ta trong ngày đói

mẹ rệu rã bàn tay cấu nát mặt sàn (1)

dâng sinh linh bé nhỏ

đón ánh bình minh

 

ta lớn lên

cha ra bến quăng lưới vào mùa đói khát

thu về một mẻ lặng thinh

người dâng từng bữa nhịn

để con lớn thành người

 

một ngày

đứa trai Mường lớn lên trong sắn khoai

biết chạy như con báo rừng tìm miếng ngon dâng cha mẹ

biết vượt qua gió xé

lớn lên

 

một ngày

gã trai Mường biết dâng em lời ngọt thương

biết vượt qua ba mường bảy núi

biết buộc vía (2) em vào nhớ

biết đưa em về mường

biết dâng lời yêu thương…

 

Chú thích:

(1) Mặt sàn: Sàn nhà gác của người Mường làm bằng gỗ hoặc tre, luồng,…

(2) Buộc vía: Một tập tục đẹp trong văn hoá Mường (mang ý nghĩa tinh thần, tâm linh). Theo quan niệm của người Mường, vía phải luôn bên người mới mạnh khoẻ nên phải làm lễ buộc vía. Khi ốm đau, phải làm lễ gọi vía (hôốc vại). Khi trai gái yêu nhau, vía của họ cũng quấn quýt lấy nhau. Buộc vía cho trai gái (vợ chồng) thể hiện lòng chung thuỷ giữa hai người với nhau.

Tranh Hoàng A Sáng

 

Bái Đa (1)

 

Khi đã thấy núi dựng lên vách đá
vạt ngô non ràn rạt gió bờ xa
mái sàn nghiêng chập chờn trong thung núi
ta chạm mình trong sương núi Bái Đa

Cô gái Mường gùi mùa vàng xuống núi
đàn trẻ yêu chạy quấn quýt quanh nàng
đứa đòi dắt, đứa đòi bồng với bế
em nựng con, ta vụn vỡ ruột gan

Bao nhộn nhịp nơi phố phường chen rấp
ta đã quên trước vạt nắng thanh bình
ta ngây ngất trước men tình xóm núi
lảo đảo say trước môi mắt người xinh

Rưng rưng gió đan chiều trong mắt mẹ
ta nghe như dội muôn khúc tình si
điệu xường, rang mẹ ru hồn khách lạ
chiều vàng phai trong muôn sắc dã quỳ

Phía sau núi hoàng hôn in sắc đỏ
chiều tỏa hương theo vạt gió la đà
chân cất bước đưa ta về với phố
mà nghe lòng còn vương vấn Bái Đa.

(1) Bái Đa: Một ngôi làng thuộc xã Phượng Nghi, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa. Nay làng được chia thành hai thôn Bái Đa 1 và Bái Đa 2.

 

Ước em về chung đôi

 

Em thương à!

mặt trời chi mà ác

rọi chi đôi má em ửng hồng

soi chi đôi môi em đỏ thắm

cho buổi sáng mai anh ngơ ngẩn

để buổi chiều hôm anh ngẩn ngơ

 

Gặp em giữa nương mơ

anh ước chi mình nhặt chung vác củi

gặp em giữa giếng làng chiều tối

anh ước gì mình vác nước chung nhà

cùng sưởi chung bếp lửa

cùng chung bát chung mâm

 

Gặp em hôm trời nắng

anh ước mình được che chung bóng râm

gặp trời mưa lâm thâm

anh ước mình đội chung nón kín 

 

Trai Mường chỉ biết nói lời thương mến

không thích nói lời gần xa

anh ước chi mình chung cửa chung nhà

để anh về sắm xôi đồ, gà lợn

mời người mường trên xóm dưới

mời chú bác trong ngoài

đón em về vui cửa

rước em về vui nhà

mừng em về làm dâu… 

 

P.T.T