Thầy tôi, Giáo sư Lê Đình Kỵ, tạ thế cùng năm với mẹ tôi (2009). Năm nay (2023), Khoa Văn học Trường ĐH Khoa học – Xã hội và Nhân văn TPHCM tổ chức tọa đàm kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Thầy và phát hành cuốn sách “Trăm năm một thuở” để ghi nhận những đóng góp đặc sắc của Thầy trong lĩnh vực văn học và giáo dục…
GS-NGND Lê Đình Kỵ (1923 – 2009)
Nói thì khó nhọc, viết thì thậm hay
Năm 1983, tôi thực tập tại thị xã Rạch Giá, Kiên Giang.Một chiều nọ có nhóm các thầy ở Khoa Ngữ văn xuống làm việc với đoàn thực tập. Tôi để ý đến một thầy thấp đậm, ăn vận xềnh xoàng, suốt buổi gần như không nói gì, chỉ thỉnh thoảng cười mỉm hiền lành, nhân hậu. Chị sinh viên năm III ngồi cạnh nói nhỏ với tôi: “Thầy Lê Đình Kỵ đó!”. Thú thật, tôi rất mừng vì với tôi lâu nay Thầy là người “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, nên hôm nay có thể mượn cách nói của Kim Thánh Thán mà rằng: diện kiến được người mình ngưỡng mộ, đó chẳng sướng lắm ru! Nhưng tôi cũng thoáng chút hoài nghi: hình như “văn ấy, người này chẳng quen”. Trông Thầy giống ba tôi ở nhà, một lão nông thuần phác; trong khi tác phẩm của Thầy vừa uyên bác, hàn lâm lại vừa rất linh hoạt, uyển chuyển, có duyên. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu văn học ghi nhận, như một thành công, một nét phong cách nghiên cứu lý luận, phê bình của Thầy. “Đọc Lê Đình Kỵ, lắm khi người ta bị lôi cuốn không chỉ với nội dung, mà còn bởi cách trình bày, bởi những ý, những chi tiết thú vị, bởi văn của người viết” (GS Nguyễn Văn Hạnh); “Nhiều trang lôi cuốn, hấp dẫn… Đọc văn nghiên cứu của Lê Đình Kỵ nhiều lúc có cảm giác như đọc văn nghệ thuật” (PGS Nguyễn Lộc); “Với giọng văn uyển chuyển, nhuần nhị, những trang viết này có thể xem là một thí dụ điển hình về sự tiếp nhận Truyện Kiều từ chỗ đứng của một con người hiện đại có tầm văn hoá cao” (GS Huỳnh Như Phương)…
Đến năm thứ ba và thứ tư, tôi được Thầy trực tiếp giảng dạy ba chuyên đề. Thời đó, cả nước đều nghèo, các thầy đứng lớp ăn mặc giản dị, nhưng khá tinh tươm; còn Thầy Kỵ của tôi lại có vẻ quá “bình dân”: áo sơ mi trắng cộc tay hơi nhàu, quần tây bạc màu, sờn gấu, chân mang dép vỏ xe hơi, và… chưa ai thấy Thầy bỏ áo vào quần bao giờ.
Thầy vào lớp trong hơi thở của người sau mấy cây số đạp xe gấp gáp để đến kịp giờ với đám học trò. Tôi bỗng có một liên hệ ngộ nghĩnh: Thầy giống hình ảnh những nhà bác học ở các thế kỷ trước, họ đến lớp mà còn mang theo cả mùi hóa chất, những ý tưởng dở dang đang nảy sinh từ phòng thí nghiệm… Thầy không giảng mà nói, nói một cách chậm rãi, khó nhọc, đôi khi rời rạc, đứt quãng về những điều Thầy từng nghiền ngẫm trong nhiều năm, những điều thầy đã viết ra thành sách! Hình như không phải Thầy nói lại điều đã biết, đã thuộc mà thầy nói về những điều Thầy đang nghĩ, đang tư duy. Tôi nhớ chuyên đề Đặc trưng của văn học, Thầy nói đâu chỉ mấy câu, đại khái: “Tác phẩm văn học nghệ thuật là một khối mâu thuẫn, nghịch lý phức tạp. Đó là mâu thuẫn giữa khách quan và chủ quan. Mâu thuẫn này liên quan đến một loạt mâu thuẫn khác trong sáng tạo nghệ thuật như phản ánh và sáng tạo, nhận thức và đánh giá, hiện thực và lý tưởng, thực và ảo, thật và bịa, riêng và chung, nội dung và hình thức… Bí quyết của sáng tạo nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng, chính là ở chỗ giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn này, xét đến cùng là giải quyết mối qua hệ biện chứng giữa sự thật đời sống và sự thật nghệ thuật”… Mãi sau này, tôi mới thấm thía được đấy chính là chìa khóa để cảm nhận và lý giải văn chương.
Những lời giảng trên lớp, các phát biểu trong hội nghị khoa học của Thầy, nếu chịu khó lắng nghe, bao giờ cũng chứa đựng những gợi mở hết sức sâu sắc về quan điểm, tư tưởng và phương pháp nghiên cứu văn học. Với Thầy có lẽ không nên học bằng mắt, bằng tai mà phải học bằng cái đầu, bằng một kiến văn căn bản. Ai đó nói rằng văn chương của Nguyễn Tuân không dành cho người nông nỗi đọc, thì cũng có thể nói, giờ học của Thầy thường không dành cho những học viên hời hợt, dễ dãi.
Bởi chưng hay nhớ cũng là hay quên Có nhiều giai thoại về sự “đãng trí bác học” của Thầy. Thực hư thế nào cũng khó xác định nhưng tất cả đều hướng tới ý chung: Thầy quá say mê công việc, luôn dồn hết tâm lực cho văn chương, cho học thuật. Một giáo sư đồng nghiệp của Thầy từ Hà Nội vào thỉnh giảng, thầy ấy nhỏ hơn Thầy độ 5-7 tuổi. Sau một hồi trò chuyện, bất chợt Thầy thân mật hỏi thầy ấy rằng: “Thế cậu đã có gia đình chưa?”, khiến bọn giảng viên trẻ chúng tôi ngồi cạnh chỉ biết cười trước hai vị giáo sư đầu bạc khả kính. Lần khác, Thầy đến tòa soạn Tạp chí Kiến thức Ngày nay gửi bài, lúc về lại lấy nhầm xe của nhà thơ Phan Hoàng, mà xe của nhà thơ sinh viên này có lành lặn gì, thế là Thầy càu nhàu xe hôm nay sao dở chứng, rồi đem sửa mất mấy trăm ngàn. Nhận lại xe từ Thầy, hẳn nhà thơ Phan Hoàng đến giờ vẫn còn sung sướng?! Còn tôi, do ỷ y vào sự “đãng trí” của Thầy mà một phen bị xấu hổ. Số là thỉnh thoảng tôi đến thăm Thầy và mượn sách về đọc. Lần đó tôi mượn Thầy khoảng hơn chục cuốn, gồm đủ loại triết học, lịch sử, văn học, báo chí,… Trong đó, có cuốn Con mắt thơ đang gây dư luận cả khen lẫn chê. Đến ngày hẹn, tôi mang sách trả Thầy nhưng cố tình giữ cuốn Con mắt thơ vì đinh ninh Thầy sẽ không nhớ hết những gì tôi mượn. Thế nhưng khi nhìn qua chồng sách, Thầy cười cười bảo: “Hình như còn thiếu Con mắt thơ!”. Tôi bất ngờ, đành ngượng nghịu chống chế: “Thưa Thầy, tại em vội nên để sót ở nhà”. Thế là hôm sau, ba chân bốn cẳng tôi mang cuốn sách ấy đến Thầy. Thầy cười hiền lành: “Chả sao, mình cũng hay quên mà!”.
Còn cái sự nhớ của Thầy, những ai từng đọc sách Thầy, từng làm công việc nghiên cứu cũng đều nể phục. Sự hiểu biết, trí nhớ của Thầy bao trùm một diện rất rộng, từ triết học, văn học phương Tây đến văn học dân gian, văn học cổ điển, văn học hiện đại của dân tộc, chỗ nào Thầy đề cập cũng đều xác đáng và tin cậy được. Đọc Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực hoặc Thơ mới – những bước thăng trầm, có thể thấy dù ghi chép tỉ mỉ mấy nhưng nếu không có trí nhớ tốt, không thuộc, không sống hết mình với những áng văn chương đó, thì khó mà dẫn dắt, “lồng ghép” một cách nhuần nhị, tự nhiên đến như vậy. Không phải không có lý khi GS Nguyễn Văn Hạnh nhận xét: “Với sự nhạy cảm và tinh tường quý hiếm ở một nhà nghiên cứu, anh Lê Đình Kỵ thật sự là một người đồng sáng tạo trong tìm hiểu các giá trị thi ca, các giá trị văn chương, mà anh đã dành nhiều thời gian để suy ngẫm, chiêm nghiệm, phát hiện ra những vẻ đẹp mới và giới thiệu với mọi người một cách hứng thú và xúc động”.
Thực ra, Thầy nhớ những điều đáng nhớ và quên những điều đáng quên! Sự nhớ và quên của Thầy nếu chưa đem lại “đóng góp” gì cho khoa học thì cũng không làm người khác rơi vào tình thế thiệt thòi, khó xử.
Tọa đàm và ra mắt sách “Trăm năm một thuở” kỷ niệm 100 năm ngày sinh GS-NGND Lê Đình Kỵ tại Khoa Văn học Trường ĐH KHXHNV TPHCM ngày 31.3.2023
Mà trong lẽ phải có người có ta
Đó là thái độ và cách ứng xử của Thầy trong học thuật và với người đời. Không ai có thể độc quyền chân lý. Trong văn chương không có chuyện “tiếng nói cuối cùng”. Mình xác tín với mình nhưng cũng tin người khác có lý của họ.
Thầy từng bảo chúng tôi như thế. Trong cuộc đời giảng dạy, nghiên cứu của Thầy xảy ra không ít tình huống khắc nghiệt, gian nan. Ấy là khi Thầy tham gia thảo luận tập thơ Từ ấy của Tố Hữu (1959-1960), xuất bản cuốn Phương pháp nghệ thuật (1962), viết bài về chủ nghĩa nhân đạo trong văn học (1970)… và bị phê phán, quy chụp rất nặng nề. Những sự kiện dữ dội như thế trong một đời người khó ai có thể lặng im, nhất là khi cùng với độ lùi của thời gian, với sự phát triển của tư duy và học thuật, chân lý càng ủng hộ mình; nhưng Thầy tuyệt nhiên không nhắc tới, dù trong bài giảng ở lớp hay lúc tâm sự ngoài đời. Cực chẳng đã Thầy mới nói: “Ông ấy có hiểu mấy về văn chương đâu!” Tính cách rụt rè, ít nói có thể là nguyên nhân làm cho nhiều đồng nghiệp mặc dù rất quý Thầy nhưng hiếm người thực sự gọi là chí thiết; còn đám học trò chúng tôi, sợ làm phiền Thầy nên thường chọn giải pháp “kính nhi viễn chi” với Thầy.
Đối với các thế hệ học trò, Thầy vừa nghiêm khắc, đòi hỏi cao về học thuật, nhất là về chuyện viết lách nhưng đồng thời cũng rất khoan hòa, độ lượng, hết lòng giúp đỡ trong nghề nghiệp và trong cuộc sống. Nếu như trong phê bình thơ, Thầy đã phát hiện và động viên kịp thời những Phan Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Thanh Thảo…, mà sau này họ trở thành những nhà thơ có tên tuổi, thì trong đào tạo, những người được thầy dìu dắt và đánh giá cao, nay đều thành danh cả, như GS Huỳnh Như Phương, PGS Nguyễn Thị Thanh Xuân, PGS Lê Tiến Dũng,… Nói về thế hệ trẻ, Thầy luôn tỏ thái độ ngợi khen và tin tưởng:“Đội ngũ giảng viên văn học hôm nay chắc chắn sẽ đi xa hơn thế hệ chúng tôi, và thực tế đã phần nào cho thấy điều đó. Lý luận văn học mỗi thời chỉ có thể giải quyết một phần việc của nó mà thôi”. Thực lòng, chúng tôi đều tự hiểu, còn xa lắm chúng tôi mới được như Thầy!
Thầy hiền lành là thế, vậy mà có lần do xốc nổi và cũng vì muốn bảo vệ Thầy, tôi đã vô tình làm tội Thầy. Hôm đó chỉ hai thầy trò ngồi với nhau, đầm ấm và thân tình, tôi nói về điều mà lâu nay tôi lo cho Thầy: “Thầy đạt gần hết các đỉnh cao của thế hệ Thầy về nghề nghiệp và học thuật rồi, Thầy đừng nên dây vào chi những chuyện cỏn con, đôi khi nó làm tổn hại đến thanh danh của Thầy”. Ý tôi muốn nhắc đến việc Thầy đề tựa cho một tập thơ mà tác giả của nó chả có tài năng gì đáng kể nhưng không dám nói thẳng với Thầy. Không ngờ Thầy không giận mà còn hối tiếc thật sự. Thầy giải thích, trong cuộc sống có đôi lúc nó buộc mình phải thỏa hiệp. Rồi Thầy kể sang một cuốn sách của Thầy xuất bản cách đó không lâu, ban biên tập đã can thiệp “thô bạo”, sửa nhiều đại từ nhân xưng, làm tổn thương đến những tác giả mà Thầy đối thoại. Lúc đó, trông Thầy rất thương. Thầy đâu có cần thanh minh với một học trò nhỏ bé và vô danh?
Hàng đầu từ trái sang: Nhà thơ Phan Hoàng, nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn, nhà nghiên cứu Nguyễn Hà – tác giả bài viết, tại cuộc tọa đàm kỷ niệm 100 năm ngày sinh thầy Lê Đình Kỵ
Con tằm đến thác hãy còn vương tơ
Cả đời Thầy gần như gắn bó trọn vẹn với cái duyên, cái nghiệp văn chương. Ở lĩnh vực phê bình, với cuốn Đường vào thơ (1969) và 2 tập Trên đường văn học (1995), Thầy chứng tỏ được tư duy và năng lực phê bình thơ của mình như một phong cách lịch lãm, tinh tế, mượt mà. Ở lĩnh vực nghiên cứu, Thầy có hai chuyên luận Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực và Thơ mới – những bước thăng trầm thật đặc sắc, đã trở thành những thách thức không dễ vượt qua đối với các thế hệ nghiên cứu. Ở lĩnh vực lý luận, với những công trình như Cơ sở lý luận văn học tập 4, Cơ sở lý luận văn học tập 5, Nguyên Lý văn học, Phương pháp sáng tác…, Thầy được giới chuyên môn xếp vào hàng giáo sư đầu ngành của lý luận văn học Việt Nam.
Dù là người làm lý luận chuyên sâu và hệ thống nhưng Thầy ít bị câu thúc hoặc bị cầm tù bởi những nguyên lý khô cứng. Năm 1985, giữa lúc nhiều người ngợi khen một chiều và có phần dễ dãi về cuốn tiểu thuyết của một tác giả thời danh, Thầy nhã nhặn Góp ý đôi điều, kiểu văn học đi sát đất, minh họa cho một chính sách, một phong trào như thế, dù đúng đắn đến đâu cũng không phải là con đường bền vững của văn chương. Và chỉ sau đó ít năm, cuốn sách ấy đã trở thành hoài niệm không vui của văn chương một thời. Thầy là một trong những người tiên phong chiêu tuyết cho Thơ mới và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nhưng người đọc thấy trong các bài viết của Thầy về hai hiện tượng văn học này rất cẩn trọng, có lý có tình, nghĩa là có lý luận mới và có lòng yêu thích cá nhân mạnh mẽ, chứ không hề vì một áp lực phi văn chương ở bên ngoài nào.
Khi thầy về hưu rồi Thầy vẫn thể hiện mối quan tâm của mình đến văn chương, đến học trò qua những trang sách,báo, luận văn, luận án Thầy đọc dang dở trên bàn. Thỉnh thoảng Thầy lại hỏi tạt ngang về một tác phẩm mới, một tác giả mới nào đó, mà vì nhiều nguyên do, tôi đã không đọc được, khiến lòng cảm thấy thẹn với Thầy.
Mỗi lần đến thăm Thầy, nhìn giá sách cứ thưa thớt dần như những học trò của Thầy, tôi thầm nghĩ: giá mà Thầy quảng giao và khéo léo hơn…, có lẽ Thầy thêm được ít nhiều thuận lợi về sức khoẻ và cuộc sống. Nhưng như thế có khi lại thiệt thòi cho văn chương và học giới nước nhà. Trong tâm khảm của thế hệ sinh viên chúng tôi, những điều chưa hoàn hảo ở Thầy vẫn có ý nghĩa và chỗ đứng riêng của nó. Thầy vẫn luôn là một nhân cách trong sáng, thanh cao, lão thực không dễ gì thay thế.
Theo Nguyễn Hà/Tuổi Trẻ