Vũ Quần Phương
(Vanchuongphuongnam.vn) – Đặng Bá Tiến tựa vào hiện thực xót đau đương diễn ra với rừng, với bà con các dân tộc Tây Nguyên, với những tên người cụ thể Ma-Kông, MaTé…, những tên đất cụ thể Bản Đôn, Ea Súp, Sê-rê-pốc… để cất lên tiếng than, tiếng hận của rừng, của sông núi, của con người.
Nhà thơ Đặng Bá Tiến
Tôi chắc Đặng Bá Tiến làm thơ đã lâu. Có thể cùng lúc vào nghề làm báo thuở thanh niên. Nhưng khi anh được phát hiện, nghĩa là được giới làm thơ và công chúng thơ biết đến và chờ đợi thì anh không còn trẻ nữa. Tập trường ca “Rừng cổ tích” anh dự giải cuộc vận động viết của Hội Nhà văn Việt Nam và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014 chụm trong một đề tài về rừng, đúng hơn về bảo vệ rừng. Một chủ đề không còn mới và cũng khó tìm ra chất liệu thơ khác lạ. Ấy thế mà thơ Đặng Bá Tiến đã làm cả ban chung khảo ngạc nhiên thích thú.
Rừng của anh là đại ngàn Tây Nguyên phong phú kỳ vĩ với cây cỏ, với muông thú, và nhất là với bản sắc văn hóa sâu dày độc đáo. Đó cũng là nơi anh đã sống cuộc sống người viết báo liền ba chục năm sung sức nhất của đời mình. Sống kỹ lưỡng, thấm đẫm từng ngày những sự kiện, những vui buồn lo lắng, những khổ ải và hi vọng của bà con dân tộc. Phong vị Tây Nguyên thấm vào hồn câu, hồn chữ của thơ anh thanh thoát, hồn nhiên lắm lắm, nếu so với Lửa sáng rừng của Thái Giang hay Bài ca chim chơ rao của Thu Bồn từ già nửa, non nửa thế kỷ trước kia. Và điều này rất đáng lưu ý: Đặng Bá Tiến đã viết về rừng bị tàn phá, bị thu hẹp như một biểu hiện của phản kháng, của căm giận, của đau đớn. Người đọc anh cũng đọc như đồng hành, đồng tình cảnh, đồng tâm trí, cùng anh giận dữ, lo âu, cùng anh đau buồn, cùng anh tố cáo. Việc xã hội nhưng đã thành nỗi đau riêng, đau vào thân xác, vào tình cảm. Đặng Bá Tiến đã nhập toàn hồn toàn trí vào cuộc đấu tranh này. Sức lôi cuốn của thơ anh trong vạt đề tài này là vậy, do vậy. Người đọc cùng hồi hộp lo âu. Cuộc đấu quyết liệt mà thế trận lại đang bất lợi cho rừng. Cuộc chiến không cân sức. Thơ kêu cứu và gọi người nhập cuộc. Rừng không kêu được thì thơ phải kêu thay. Thì trái tim con người phải vào trận. Bọn nó nào xe kéo, xe tải, cần cẩu, cưa máy, có khi cả súng, dao, cả tiền bạc với hợp đồng, với quyết định… Khi êm dịu mưu mô, khi ra oai hống hách. Mà phe rừng, phe dân, phe thơ, chỉ có trái tim con người và lẽ phải của đất đai sông núi. Đặng Bá Tiến được giải nhất lần đó vì anh đã dùng thơ làm nhiệm vụ của trái tim. Người thi thơ đã thắng trong thơ, nhưng rừng thì chưa thắng trong cuộc bảo vệ rừng.
Tập thơ “Hồn cẩm hương” của Đặng Bá Tiến
Tập thơ “Hồn cẩm hương” là cuộc chiến tiếp tục của người viết Đặng Bá Tiến. Cuộc đấu vẫn không cân sức. Trước cái thi thể đang hấp hối của đại ngàn kỳ vĩ Tây Nguyên, người thơ không còn cần tố cáo hay lên án nữa. Mọi người đã rõ. Rừng đã mất nhiều lắm. Ở đây, trong phần thứ nhất của tập thơ, phần Nỗi rừng, đã thấy tràn ngập nỗi tiếc thương, hoài niệm. Ngót hai mươi bài thơ trùng điệp những câu hỏi cảm thán Còn đâu, Đâu rồi hoặc Tôi mơ, Tôi nhớ… Nhớ mà không còn thấy nữa, chỉ thấy trong hoài niệm, trong giấc mơ xa – giấc mơ thì xa nỗi cơ cực lại quá gần. Đặng Bá Tiến tựa vào hiện thực xót đau đương diễn ra với rừng, với bà con các dân tộc Tây Nguyên, với những tên người cụ thể Ma-Kông, MaTé…, những tên đất cụ thể Bản Đôn, Ea Súp, Sê-rê-pốc… để cất lên tiếng than, tiếng hận của rừng, của sông núi, của con người. Anh nghe được tiếng khóc trầm âm vang của chiêng, anh thấy nước mắt trên mặt tượng nhà mồ. Anh nghe tiếng kêu đêm con bìm bịp mất tổ tiếng như máu chuyển trong trời đất. Sáng ra tìm tới chỗ tiếng kêu đêm qua: Chim mẹ tàn hơi nằm rã cánh/ Máu từ tiếng khóc vẫn còn rơi. Nỗi rừng trong thơ Đặng Bá Tiến là nỗi đau, nỗi mất, nỗi thảm họa bi thương, là tiếng báo động trong trời đất, báo động trước lịch sử. Mất rừng là mất hết. Nỗi mất lớn nhất là mất đi bản sắc văn hóa đặc hiệu và phong phú của Tây Nguyên.
Chi tiết anh dẫn ra chân thực và đầy tính thơ. Chân thật là do vốn sống, biết nhiều trải nghiệm nhiều phong tục, lối sống, lối nghĩ của bà con… Nhưng tính thơ, ấy là năng lực chuyển hóa của tâm hồn anh. Không biết có phải từ tấm bé, được sinh và lớn ở vùng rừng Can Lộc, Hà Tĩnh, Đặng Bá Tiến đã sớm nhập mình vào thiên nhiên cây lá muông thú suối sông… Hình ảnh những cánh rừng bị tàn phá, những con sông cạn dòng, mạch sống buôn làng bị hủy diệt… đã thành những ấn tượng kinh hoàng, nhức nhối, căm hận, có tính cấp báo. Lời cấp báo hốt hoảng, khẩn thiết như tiếng kêu cứu cháy. Bên cạnh đó là hình ảnh đắm đuối thơ mộng của rừng thuở nguyên sơ. Nguyên sơ cây lá và thanh khiết hồn người. Chủ đề cứu rừng, đến tập thơ này, vẫn là chủ đề nổi trội của Đặng Bá Tiến (phần I – Nỗi rừng). Nổi trội về ý tưởng, tình cảm. Nổi trội cả về hình thức thể hiện. Một nhà thơ đã thuần thục bút pháp, hơn hẳn Đặng Bá Tiến ở các đề tài khác. Một cách vào bài, vào ngay thân phận một người con tiêu biểu của rừng, Ông già Ma-Kông. Động tác bóp chân, hình ảnh cụ thể và có sức khái quát cho cả đời người gian lao, ngang dọc với rừng:
Ma- Kông ngồi
bóp gối đầu sàn
bóp vạn dặm đời
trong hai ống xương đang khô tủy
Sau hình ảnh người là âm thanh, tiếng tù và trầm bổng âm âm u u bay vào mịt mù xa thẳm. Một hoài niệm quá khứ, đau buồn mê mê tỉnh tỉnh. Dĩ vãng rừng hiện ra đẹp rực rỡ. Sắc hoa, phấn nhụy, mật ngọt, tiếng ong bay và đuôi công xòe múa. Đẹp, tươi, kỳ ảo như trong xứ sở thần tiên. Đoạn kết là câu hỏi của lòng người, đã nhuốm màu vô vọng, hỏi vào trời đất. Tôi nói kỹ một bài để bạn đọc dễ hình dung sức bút Đặng Bá Tiến khi nhập hồn những cánh rừng đang bị tàn phá. Tác giả đau trong máu thịt mình nỗi hấp hối của rừng. Ý thơ sâu, lời thơ mạnh. Gào ở đầu ngọn bút để gục đổ trong lòng người đọc cho một ngày như tận thế:
Rừng đã bỏ sông
sông biết sống với ai
sông khô héo thác cũng đành ngắc ngoải
giờ trên sông là bầy quạ đói
vỗ đôi cánh đen ngòm tìm xác cá khô
Hơi thở rừng Tây Nguyên hầm hập trong câu thơ Đặng Bá Tiến. Có tiếng của tâm linh, của tập tục văn hóa, của cách nói cách nghĩ Tây Nguyên. Đặng Bá Tiến có những cơn say, anh đắm vào Tây Nguyên, hòa tan tâm hồn mình chếnh choáng chất liệu cao nguyên miền Trung. Thơ rất thơ đến quên cả vần điệu (Khúc xuân chép ở bản Đôn). Đây là quan sát, hay nhận thức, hay trạng thái thường trực một tâm hồn khát nhớ thần thái rừng xa cũ:
Bây giờ ngồi bên sông
không còn nghe sóng hát
… không còn nghe gió đẩy khúc liêu trai
chòng chành tình duyên trên độc mộc
Và hoảng hốt với những gì đang diễn ra:
Đêm tháng ba tôi nằm mơ thấy sông đang bị cháy
nước sôi lên, đá vỡ ứa máu hồng
-Sê- rê-pốc ơi
-Sê- rê- pốc ơi
Tôi gào gọi tên sông trong nước mắt ròng ròng…
Phần II của tập thơ, Nỗi đời, là những đề tài khác nhưng vẫn chất tâm hồn ấy. Khi mê đắm reo ca, khi tỉnh thức phê phán. Ngay cả khi anh thiên vị, ngoảnh lại níu kéo dĩ vãng như một người hoài cổ, thì tình cảm chân thành của anh vẫn làm ta cảm động. Anh thở hắt ra với cái tác động ma quái của đồng tiền: Chợ nay còn những má hồng/ nhưng tình bạc trắng như đồng tiền trao. Anh chia sẻ nỗi nhớ nghề của người lao động, một ông lão đan tre nứa trong thời đồ nhựa thịnh hành: ta đan/ khỏi phí một đời của ta/ dẫu không nuôi nổi thân già/ thì nuôi mơ ước/ nghề ta mãi còn. Đặng Bá Tiến nay đã vào tuổi ham nghĩ ngợi thế thái nhân tình, câu thơ đằm nhiều chiêm nghiệm. Nhiều khi anh có lý nhưng cũng có khi chưa thuyết phục lắm. Có điều, mỗi khi đụng đến cây đến rừng, dù đang ở đề tài nào, câu thơ Đặng Bá Tiến cũng nghẹn ngào đắm đuối. Phải chăng đấy là quê hương cảm xúc của hồn anh?
V.Q.P