Huyền tích về chùa Bà Đanh và về câu thành ngữ

120

“Vắng như chùa Bà Đanh” đó là một câu thành ngữ vốn từ lâu, nay thành câu cửa miệng của mọi người mỗi khi nói về một nơi chốn nào đó quạnh quẽ, đìu hiu. Tuy nhiên, có hai ngôi chùa từng được gọi là “chùa Bà Đanh” và cả hai ngôi chùa đó đều “nhận” câu thành ngữ đó xuất phát từ chính ngôi chùa của mình.

Ngôi chùa mang tên Bà Đanh ở Hà Nội

Tôi chọn đúng sáng ngày mùng 1 tháng Bảy (Âm lịch) để tới ngõ 199 phố Thụy Khuê. Nghe nói trong ngõ đó có ngôi chùa từng mang tên “chùa Bà Đanh”. Lý do vì sao chọn ngày ấy cũng đơn giản thôi vì sáng đó chắc chắn chùa sẽ có nhiều người đến lễ và khả năng cao là có mặt vị sư trụ trì.

Sau khi vào ngõ 199, tôi “chui” qua một cổng cổ, cổng khá nhỏ nên tôi phỏng đoán đây có thể là cổng hậu hoặc là cổng phụ của làng Thụy Khuê xưa. Qua cổng chừng 20m thì tới chùa Châu Lâm, tấm bảng nhỏ gắn ở bức tường chùa đã ghi như thế.

Cổng cổ làng Thụy Khuê.

Sáng nay, chùa có đông người tới lễ nhưng cũng không khó khăn gì để gặp vị sư trụ trì. Ni sư Thích Đàm Chỉnh năm nay đã 93 tuổi nhưng còn mạnh khỏe. Cụ chùa, như cách gọi của mọi người, sau khi đôn đáo đi lại trong chùa để nhắc nhở người đến lễ, cụ cùng không quên nhắc tôi “ông lên Tam Bảo làm lễ chưa?”.

Nghe lời nhắc và cũng thấy phải làm lễ trước đã, hỏi chuyện gì thì thư thả, do vậy tôi theo chân mấy bà lên nhà Tam bảo. Đó là chùa chính, một ngôi chùa dường như bị “bé” lại khi kẹp giữa những ngôi nhà dân cao tầng. Tuy nhiên, nhà Tam bảo vẫn đầy đủ dáng vẻ của một chùa vào loại kha khá. Tôi cúi đầu lễ xong thì đưa mắt quan sát, trước mặt tôi là một bức đại tự treo chính giữa chính điện, bức đại tự ghi dòng chữ “Phúc Châu tự”, có nghĩa là “chùa Phúc Châu”.

Hơi chút ngờ ngợ về tên chùa nên tôi quay xuống nhà Mẫu, ni sư Thích Đàm Chỉnh cũng dành cho tôi ít phút để tôi hỏi chuyện. Hiềm nỗi cụ chùa bị nặng tai nên cuộc hỏi chuyện của tôi không như mong muốn. Thấy tôi còn băn khoăn nên một bà đi lễ lại gần mách nước, bà Yến (tên người đàn bà đó) nói: “Bác lên Đền Voi Phục Thụy Khuê đi. Cụ Tùng đang ở đó. Cứ gặp rồi hỏi cụ Tùng là ra hết”.

Tôi chắp tay cảm ơn cụ chùa rồi lên Đền Voi Phục Thụy Khuê. Ngôi đền rất dễ nhận ra bởi ở ngay mặt phố Thụy Khuê, cách ngã tư Văn Cao – Thụy Khuê chừng hơn chục mét. Rất may cụ Nguyễn Văn Tùng đang ở đó.

Cụ Tùng chào đón tôi sau khi nghe tôi tự giới thiệu về mình và về mục đích cuộc gặp. Cụ ông đã 90 tuổi này còn khá minh mẫn và đặc biệt như lời giới thiệu của bà Yến thì cụ Tùng rất thông và thạo chuyện chùa, chuyện đền ở làng mình (Làng Thụy Khuê).

Hiện cụ Tùng là Trưởng ban quản lý di tích phường Thụy Khuê, cụ không chỉ hiểu chuyện, rõ chuyện mà còn nhiều tâm tư về những điều không chính xác khi nói về lịch sử Thăng Long.

Câu chuyện giữa tôi với cụ Tùng diễn ra thân thiện và cởi mở. Tôi bèn hỏi luôn: “Cháu thấy ở Tam Bảo chùa Châu Lâm có bức đại tự ghi “Phúc Châu tự”? Vậy đó là như thế nào?”. Cụ Tùng mời tôi chén nước chè rồi thong thả bảo: “Chuyện này hơi dài. Để tôi từ từ nói cho ông rõ”.

Thuở xưa, tức là cách đây khoảng bảy trăm năm, dưới thời Hậu Lê, năm 1471 đích thân Vua Lê Thánh Tông dẫn quân đi đánh Chiêm Thành. Lần ấy quân Lê thắng lớn, bắt được 30.000 tù binh Chiêm. Vua Lê Thánh Tông lệnh đưa hết số tù binh Chiêm này ra Đại Việt.

Trong số những tù binh Chiêm Thành đó có nhiều người khỏe mạnh, có tay nghề xây dựng hay nghề mộc, nghề làm vật liệu xây dựng. Nhà Vua đưa những người có tài đó về Kinh thành. Cho họ được ở một nơi gần Kinh thành để tiện cho việc làm lao dịch phục vụ việc xây dựng công trình trong thành.

Vị trí những tù binh Chiêm có tay nghề cao đó bị”giam giữ” mà thực chất là để họ sinh sống được lập ở bên hồ Dâm Đàm, chỗ Trường THPT Chu Văn An hiện nay. Chỗ đó được gọi là Ấp (Còn được gọi là Viện) Châu Lâm. Chữ Châu Lâm không có nghĩa là “rừng ngọc” mà được hiểu như sau: “Châu” là chỉ vùng miền, như kiểu “Châu Hoan, Châu Ái” xưa, còn “Lâm” gợi về quê hương Chiêm Thành. Ấp Châu Lâm là nơi những người tù binh Chiêm sống.

Nhưng người thợ – tù binh Chiêm vốn là những người theo đạo Phật nên bởi thế mà ở ấp Châu Lâm có một ngôi chùa nhỏ dành để những người Chiêm đến đó lễ Phật, thực hiện tín ngưỡng của mình, đây cũng là một việc làm thể hiện sự quan tâm đến đời sống tâm linh của những người Chiêm bị bắt buộc rời quê xa xứ đi làm lao dịch.

Chùa dành cho người Chiêm được đặt theo tên ấp là chùa Châu Lâm và do một người đàn bà cô quả trông coi. Vì sao lại chọn một người đàn bà trông coi chùa? Dễ hiểu là bởi thuở xưa, nhất là mấy trăm năm trước, cơ sở đào tạo Phật giáo hầu như không có, các nhà tu hành muốn thành chính quả ngoài tu luyện trong các ngôi chùa hiếm hoi trong nước ra còn phải “sang Tây Trúc lấy kinh”, tức là phải “du học” Phật giáo bên Ấn Độ thì mới trở thành các nhà sư.

Do vậy việc có sư trụ trì ở trong chùa là vô cùng hiếm nên phải cậy nhờ tới những người đàn bà không nơi nương tựa, không chốn nương thân vào chùa làm việc trông coi. Người đàn bà cô quả đó được người làng gọi là bà Đanh, bà Đanh có nhiệm vụ mở đóng cửa chùa, thắp hương, lau chùi quét dọn chùa và những việc vặt như nhỏ cỏ đốt lá. Tù binh Chiêm và cả người dân quanh đó quen mồm gọi nôm na chùa Châu Lâm là “chùa Bà Đanh”.

Đến đây tôi phải nói thêm rằng: Thuở trước ở các làng người Việt Bắc bộ còn có nhiều thôn, xóm, chòm, ấp… những “đơn vị hành chính dưới làng” này thường có tên gọi riêng, dĩ nhiên không được tên “sang” như tên làng chính. Thế là ra đời những cái tên tục kiểu như: Xóm Đanh, xóm Đá, xóm Đìa, thôn Ngô, thôn Nành… hiện ở quê tôi (thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên), ở quận Long Biên và huyện Gia Lâm, Hà Nội và một số địa phương khác vẫn còn những thôn, làng, xóm mang cái tên tục đó.

Trong những thôn, xóm, quê kiểng ấy hay có những người đàn bà có số phận không được tròn trĩnh và hình như họ cũng chẳng có tên riêng để mà gọi mà họ được gọi theo tên tục xóm thôn mà họ sinh sống. Họ thật đáng thương và khi chùa làng cần có người trông coi thì những người đàn bà đó được làng cử ra chùa làm công quả.

Gọi chùa Châu Lâm là chùa Bà Đanh chắc là gọi kiểu dân giã theo tên tục của người đàn bà trông chùa ở thôn Đanh? (Được biết ở Hà Nội hiện nay vẫn còn một số chùa vốn mang tên tục như vậy, chẳng hạn như: Chùa Bà Đá ở phố Hàng Trống; chùa Bà Ngô ở phố Nguyễn Khuyến; chùa Bà Nành ở phố Ngô Sĩ Liên. Những ngôi chùa mang tên “Bà” đó có diện tích khá khiêm tốn nhưng vẫn giữ được cấu trúc quen thuộc của các ngôi chùa cổ phía Bắc và đều có tuổi đời tám chín trăm năm). Rất có thể người đàn bà trông coi “chùa Bà Đanh” ở ấp Châu Lâm xưa là một trong những hoàn cảnh như vậy?

Tôi vội hỏi cắt ngang lời cụ Tùng: “Vậy tên chùa ở Thụy Khuê là gì?”. Cụ Tùng cười ý bảo tôi cứ từ từ mà nghe.

Đền Voi phục Thụy Khuê.

Thời gian phôi pha, những người Chiêm là tù binh làm lao dịch ở ấp Châu Lâm thưa vắng dần. Người thì già cả mà qua đời. Người thì được cho dời đi nơi khác sinh sống. Họ và con cháu họ sau này đều trở thành “dân Đại Việt” (Về những người Việt gốc Chiêm Thành cùng những ngôi làng của họ xin được dành cho một bài viết sau). Kể từ khi những tù binh người Chiêm thưa rồi hết hẳn, ngôi chùa Châu Lâm vốn đã không có người Việt đến lễ nên vắng vẻ lại càng thêm vắng vẻ. Chùa thành hoang phế. Người dân các làng quanh đó mỗi khi nói chuyện với nhau thường bảo rằng: “Vắng như chùa bà Đanh”. Câu nói này tôi ngẫm ra rất có lý.

Theo như cụ Tùng cho hay thì cũng vào thời gian ấy làng Thụy Khuê có một ngôi chùa mang tên Phúc Lâm. Người làng thường đến chùa Phúc Lâm để lễ Phật nhưng “nỗi nhớ” về một ngôi chùa có tên là “Châu Lâm hay Bà Đanh” thì người làng Thụy Khuê chẳng bao giờ quên.

Chùa Châu Lâm tuy hoang phế nhưng nó vẫn tồn tại song song với chủa Phúc Lâm. Chắc là do nhận thấy sự “thừa thãi” bởi một làng có những hai chùa nên vào năm 1870 chùa Phúc Lâm được sáp nhập với chùa Châu Lâm, chùa mang tên mới là Phúc Châu và đến năm 1907 do việc khu vực chùa cũ bị người Pháp lấy đất để xây dựng trường Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo hộ) tức trường THPT Chu Văn An, nên chùa được di dời tới tại vị trí như hiện nay ở ngõ 199 phố Thụy Khuê, bức đại tự ghi “Phúc Châu tự” là bằng chứng.

Cụ Tùng còn giải thích cho tôi hiểu vì sao có tên là Phúc Châu rồi mà người làng Thụy Khuê cứ gọi là chùa Châu Lâm, cụ Tùng bảo đó là bởi gọi quen rồi nên lâu ngày cứ thế mà gọi. Chùa Phúc Châu hay chùa Châu Lâm như cách gọi hiện nay tuy không phải là chùa “Bà Đanh” của những tù binh Chiêm xưa nhưng ở một cách hiểu nào đó thì chùa dường như là “tiếp nối” của chùa Bà Đanh xưa. Do vậy mới có một sự hơi nhầm lẫn khi cho rằng, chùa Châu Lâm (Phúc Lâm tự) là chùa Bà Đanh?

Chùa Bà Đanh ở Kim Bảng tỉnh Hà Nam

Tôi tới thăm ngôi chùa này thì đàng hoàng hơn, nghĩa là chúng tôi đi thành đoàn mấy chục người và được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Nam cử cô Nguyễn Toan, cán bộ của Sở ra đón tiếp và cô Nguyễn Toan trực tiếp làm người thuyết minh giới thiệu cho đoàn.

Chùa Bà Đanh được xây dựng như hiện nay vào năm 1676 đời Vua Lê Hy Tông, nằm ở thôn Đinh Xá (người làng gọi chệch là thôn Đanh. Cách gọi chệch này hoàn toàn không vì chuyện kiêng húy mà theo tôi biết đó là lối nói giọng quê, ví dụ như: Cái đinh gọi là cái đanh. Đòn gánh gọi là đồng ghính…), thôn ở phía tây nam xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, bên bờ tả ngạn sông Đáy, gần núi Ngọc, một ngọn núi đá cao chừng hơn chục mét cây cối xanh tươi bốn mùa. Cô Nguyễn Toan đọc cho chúng tôi nghe câu thơ khi đoàn chúng tôi vừa tới cổng chùa: “Ai nặn ra núi Ngọc/ Ai khơi dòng Đáy xanh/ Thơ văn như nước chảy/ Ngát hương chùa Bà Đanh/ Trời sinh ra núi Ngọc/ Đất tạo dòng Đáy xanh/ Thơ văn thành châu ngọc/ Linh thiêng chùa Bà Đanh”.

Chùa có tên chữ là “Bảo Sơn tự” nghĩa là chùa Bảo Sơn. Cô Nguyễn Toan giải thích: “Gọi là Bảo Sơn bởi khu vực này có nhiều núi đá. Ngay gần đây có khu di tích Đền Trúc – Ngũ Động Sơn các anh các chị ạ!”.

Tôi hỏi thêm cô Nguyễn Toan khi đoàn đi qua lối cổng phụ để vào chùa: “Thế tên gọi chùa Bà Đanh xuất xứ từ đâu?”. Cô Nguyễn Toan cho hay: “Dạ. Thứ nhất là chùa Bảo Sơn đây nằm ở thôn Đinh Xá hay thôn Đanh và cũng như nhiều chùa khác ở miền Bắc Việt Nam, điện thờ gồm nhiều tượng Phật và Bồ Tát như các chùa thờ Phật theo phái Đại thừa, đồng thời còn có tượng Tam phủ, Tứ phủ của tín ngưỡng dân gian. Nhưng nét đặc sắc và riêng biệt của ngôi chùa chính là bức tượng Bà Chúa Đanh tọa thiền trên một chiếc ngai bằng gỗ được thờ ở bên trong hậu cung. Do vậy người dân cứ nôm na gọi là chùa Bà Đanh thôi ạ!”.

Tôi lại hỏi: “Vậy Bà Chúa Đanh là người thế nào mà được tạc tượng rồi đặt thờ trên ban điện?”. Cô Nguyễn Toan cười nói: “Thì mời đoàn vào trong chùa làm lễ đã”.

Chùa chính của chùa Bảo Sơn với bức dại che hiên.

Đúng là chùa Bảo Sơn khá yên tĩnh thật bởi khuôn viên của chùa có nhiều cây xanh rợp bóng lại cách làng bởi sông Đáy. Chùa chính hay còn gọi là Tam Bảo nom giản dị như một ngôi nhà dân ở vậy bởi ngay trước hiên nhà có một bức dại bằng tre đan; bức dại vừa che nắng, che gió lại vừa khéo nhắc ai đó muốn vào trong chùa thì phải đi theo lối hai bên nhà chứ không xộc thẳng vào chính cửa giữa, lại tạo nên vẻ yên ắng vẻ thanh tịnh cho chùa.

Đúng như lời cô Nguyễn Toan đã nói, điện thờ ngoài các bức tượng Phật ra thì còn có bức tượng Bà Chúa Đanh tạc bằng gỗ, với gương mặt trẻ đẹp, đôn hậu. Bà Chúa Đanh đầu đội mũ niệm, áo thanh y màu đỏ đun. Bà ngồi đó thư thái, một chân xếp bằng, một chân hơi chống. Tay trái của bà đặt hờ lên đầu gối chân chống, tay phải với những búp tay sen tựa như bấm bắt quyết. Đồn rằng bức tượng bà được tạc từ một khúc gỗ quý, truyền thuyết kể lại: Vào dịp dân làng tiến hành tạc tương thì gặp mùa mưa lũ, nước sông dâng cao, chợt bến sông trước chùa có một vật lạ nửa nổi nửa chìm lượn lờ nhưng không trôi theo dòng nước. Dân làng vớt lên xem thì đấy là một vật làm bằng gỗ quý như chiếc ngai bèn rước ngay vào chùa tạc tượng bà.

Cô Nguyễn Toan cho hay: “Chùa Bảo Sơn thờ Tháp phong, đó là một tín ngưỡng hoàn toàn mang tính bản địa. Tương truyền rằng: Trước đây, ở vùng này luôn gặp mưa to, gió lớn nên sản xuất rất khó khăn. Vào một ngày kia, cả làng xôn xao chuyện thánh nhân báo mộng cho một cụ già trong làng. Theo mộng thì: Có một người con gái trẻ trung, xinh đẹp, đoan trang, khuôn mặt phúc hậu với vầng trán và đôi mắt thông minh đã hiện về nói với cụ già trong làng rằng: “Ta được thần cho về đây để chăm nom và chỉ bảo dân làng làm ăn”. Nghe chuyện mộng báo nên dân làng bèn lập chùa thờ bà. Các bô lão chọn khu rừng đầu làng làm nơi dựng chùa. Nơi ấy bấy giờ là một vạt rừng rậm rạp, có nhiều cây cổ thụ, sát bờ sông là một hòn núi nhỏ nhô ra mặt nước. Kể từ khi có chùa thì nơi đây mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu nên được gọi là “chùa Đức Chúa Bà làng Đanh” gọi tắt là “chùa Bà Đanh”. Cô Nguyễn Toan chỉ tay vào bức tượng Bà Chúa Đanh và nói: “Sau khi tượng được tạc xong mọi người đều nhận thấy tượng có gương mặt và hình dáng y hệt hình ảnh cô gái trong mộng báo đêm nào”.

Tôi hỏi thêm về câu thành ngữ “Vắng như chùa Bà Đanh“. Cô Nguyễn Toan cho hay: “Vì chùa xưa ở vị trí xa làng, lại núi cao rừng rậm và nhiều thú dữ nên ít người lui tới nên người ta nói như vậy”. Nghe cô Nguyễn Toan giải thích như thế tôi thấy không ổn, bởi đây là ngôi chùa rất linh thiêng sao lại vắng vẻ được? Hơn nữa từ xa xưa các ngôi chùa làng Việt thường được dựng ở cách xa làng hoặc là cách làng đoạn ruộng hoặc là tại một chòm hay xóm nhỏ nào đó. Việc chùa Bảo Sơn được xây dựng ở xa làng không có gì nói thay được vẻ vắng đìu hiu như câu thành ngữ?

Tượng Bà Chúa Đanh trong điện thờ.

Cô Nguyễn Toan sau khi dẫn đoàn chúng tôi đi thăm chùa cùng núi Ngọc và các cảnh quan xung quanh thì mời đoàn dừng chân trước cửa chùa chụp ảnh kỷ niệm. Đã vào mùa nhãn chín, những rặng nhãn được trồng dọc lối đi giữa chùa Bảo Sơn (Bà Đanh) với núi Ngọc đang tỏa mùi nhãn chín thơm lừng khắp không gian. Dòng sông Đáy đoạn chảy qua đây chừng như uốn ôm lấy mảnh đất có ngôi chùa huyền tích.

Cô Nguyễn Toan nói thêm: “Chùa Bà Đanh – Núi Ngọc thật xứng tầm một danh lam cổ tích. Nơi đây, bao đời rồi, sông núi đã hòa nhập với nhau, cảnh trí thiên nhiên và công trình nhân tạo đã bổ sung cho nhau, góp phần nâng cao giá trị của cả khu di tích, là điểm dừng chân lý thú cho khách du lịch khi đến tham quan Hà Nam”.

NGUYỄN TRỌNG VĂN

Báo Dân Việt 10.2023