Kim Anh – Thức bước thời gian

334

Thơ chị mang cái tôi riêng, giọng điệu riêng độc đáo của một hồn thơ rất mực đàn bà vừa phóng khoáng lại vừa kín đáo, dung dị; vừa mạnh mẽ, bản lĩnh lại vừa dịu dàng, tinh tế; vừa có nỗi ẩn ức, nghi ngại, trắc ẩn, lại vừa có sự quyết đoán, trí tuệ, nhân hậu; vừa mang âm hưởng dân gian, lại vừa rất hiện đại…


Nhà thơ Bùi Kim Anh.

Tập thơ “Thức bước thời gian” (Nxb Hội nhà văn, 2022) của nhà thơ Bùi Kim Anh – người chị mến thân cùng “chiếc nôi” Văn khoa Sư phạm đã mang đến cho tôi bao cảm xúc. Ngoài giảng dạy, dân văn Sư phạm là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nhiều thế hệ, có Nguyễn Khoa Điềm, Ma Văn Kháng, Phạm Tiến Duật, Tô Nhuận Vĩ, Trần Hòa Bình, Trần Quang Đạo, Nguyễn Thị Mai, Trần Thị Trâm… đam mê sáng tác và nghiên cứu.

Bùi Kim Anh sinh ngày 25.2.1948 tại quê lúa Thái Bình và gắn bó cả đời với Hà Nội. Tốt nghiệp Khoa ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chị gắn bó với nghề dạy văn phổ thông trung học “xê dịch” từ ngoại thành (Trường Cổ Loa) hành trình hướng về nội thành từ Trường Bạch Mai đến Trường PTTH Hoàn Kiếm – Trần Phú – trung tâm Thủ đô cho đến khi nghỉ hưu. Cô giáo Bùi Kim Anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1998.

Song hành cùng nghề giáo là sự nghiệp văn chương. Ngoài tập tản văn “Sống chậm”, Bùi Kim Anh dành trọn vẹn hành trình sáng tác của mình cho thơ. Trình làng tập thơ đầu tay Viết cho mình” năm (1995) và sau gần 30 năm chị là tác giả của 11 tập thơ: “Cỏ dại khờ” (1996), “Lối mưa” (1999), “Bán không cho gió” (2005), “Lời buồn trên đá” (2007), “Lục bát cuối chiều” (2008), “Bắc lên ngọn gió mà cân” (2010), “Đi tìm giấc mơ” (2012), “Nhặt lời cho bóng lá” (2015), “Hình như mùa đã lỡ” (2017) và “Thức bước thời gian” (2022).


Tập thơ Thức bước thời gian – Bùi Kim Anh

Thức bước thời gian” dày 191 trang, khổ 20cm x 20cm, với 120 bài thơ theo như tác giả “bật mí” là vì gắn với tập sách thứ 12.

Điều dễ nhận thấy là hầu hết các bài thơ đã chụm lại làm rõ chủ đề tập thơ “Thức bước thời gian”. Có thể nói thời gian là thông điệp chính nhà thơ muốn trải lòng khi đã chạm đến tuổi “thất thập ngũ niên”. Ý niệm thời gian từ cụ thể đến khái quát thể hiện từ nhan đề từng bài thơ, như: Ánh hoàng hôn mùa đông, Buổi sáng nơi ngõ hẹp, Chỉ còn là đêm, Chiều Buôn Mê, Chiều nắng hạ, Chiều thứ 7, Cho một chiều dành lại, Chủ nhật với hoa cúc, Đêm Nha Trang…

Nhà thơ đã quá nhạy cảm để nhận biết sự chảy trôi của thời gian: “Không viết cho mùa thu nữa/ ánh hoàng hôn mùa đông tím lịm/ những ngày tháng mùa đông sương mờ/ bài ca ánh mặt trời mang bốn mùa đi xa/ ta còn mơ mộng mãi/ những lời thơ viển vông// những câu chuyện theo con nước dòng sông/ cứ quẩn vào rong rêu củi rác/ ta mặc lòng mà miên man thời gian (Ánh hoàng hôn mùa đông).

Nhà thơ cảm nhận màu thời gian “thời gian đóng dấu màu chì lên thơ ta” (Chỉ có tiếng gió); biến đổi thời gian qua cảnh vật thiên nhiên “chiếc lá bàng như một chấm đỏ run rẩy… Khi những chiếc lá cuối năm quăn nếp nhăn rơi trên lối phố” (Chiếc lá cuối đông); “cây bàng đầu ngõ đợi sang lá đỏ” (Chiều thứ 7). Thời gian như “đang vội vã hoán đổi/ mùa vô tình và ta vô tình” (Đủ cảm giác ngày đông)… Chị quá nhạy cảm để nhìn lá cảm nhận dấu hiệu tuổi tác “bạn sẽ hiểu tuổi già/ khi bước chân nhức mỏi” (Chiếc lá cuối đông); “quanh ta có bao kẻ vô tình tự an ủi già rồi/ có ai nỡ trách người già” (Đủ cảm giác ngày đông)…

Sự an nhiên trước sự chảy trôi cuộc đời: “bình thản mùa đông gió lạnh về/ bình thản khẩu trang khoác áo ấm đi ra phố… ta ngồi bình thản trong căn nhà đóng cửa/ lo lắng nào ngoài kia” (Bình thản). Thơ chị chẳng né nỗi đau, niềm đau, nỗi buồn “buồn ta già với bơ vơ gió mùa/ lẻ loi một mối buồn thừa” (Lẻ loi một mối buồn thừa); “tôi buồn nhặt lại buồn tôi… lúc buồn tôi gọi tôi ơi” (Lúc buồn tôi gọi tôi ơi)… Nhà thơ đón nhận nỗi buồn cũng hết sức bình thản: “buồn ta âu đã mấy người/ cười thế khóc thì cũng thế” (Buồn ta âu cũng mấy người); “đánh thức buổi sáng bằng tiếng đàn piano gõ từng nhịp như đếm/ trẻ nhà bên không đi học tập đàn” (Buổi sáng ơi ngõ hẹp).

Cũng có khi nhà thơ rơi vào tâm trạng hẫng hụt thời gian “viết mãi chưa hết cuộc đời/ ngã lại dậy đi / xoá rồi lại viết” (Đi mãi chưa hết căn nhà). Thơ có sự thảng thốt: “nghe được cả tiếng thì thầm mách bảo/ đợt lá rơi cuối cùng của mùa cây/ như cả tiếng nứt vỏ cho mầm xanh non nhú/ chậm lại đi/ lẽ nào chiếc lá…”. Bài thơ “Đừng hẹn nữa ngày mai” như một lời cầu khiến “một ngày đã qua và một ngày không trở lại/ mặc con người cứ ghi và cứ tính/ mặc đồng hồ quay hai mươi tư tiếng/ tóc thời gian trắng lại nhuộm màu/ một ngày thôi cũng là quá muộn/ mây thiên di cảm xúc cũng rời đi/ lẳng lặng thời gian dòng đời biến động/ chớ để ngày mai/ đừng hẹn nữa ngày mai/ nếu có thể thương nhau hôm nay/ không gặp nữa khóc cười chốc lát/ bao nhiêu là cỏ mọc/ quanh ta hoa nở hoa tàn/ vẹn nguyên không gian trời đất/ vẹn nguyên vòng quay thời gian/ lòng người liệu có vẹn nguyên/ giật mình ngoái lại/ xin đừng hỏi/ thời gian đặt ở đâu/ ta là ai/ xin đừng hỏi/ cùng sống hết lòng hôm nay đã”… An nhiên với cuộc đời kể cả khi “một bàn tay rất nhẹ / dắt đi” và điểm vịn tựa chính là thơ “làm thơ như ngồi thiền/ trong đêm ta nhìn thấy/ một lối nhỏ màu rêu/ một bàn tay rất nhẹ / dắt đi”…

Chân dung tự họa của người đàn bà thơ với nhiều trạng thái. Khi dịu dàng, đằm thắm “em nghĩ về mùa thu của em/ có hai miền yêu riêng không tụ lại/ em làm thơ trong giấc ảo một mình” (Đêm nơi thanh thản); lúc thanh thản bên “những bông cúc nhỏ và những bình hoa nhỏ” (Chủ nhật với hoa cúc); khi “tôi thu tôi trong vạt váy hoa phô sắc lời vô duyên mắc lại” (Căn nhà cũ). Cô đơn như “đặc sản” thường trực với thi nhân “luẩn quẩn một ta tha thiết một ta” (Cho lời âu yếm cũ). Có lúc rơi vào tâm trạng mệt mỏi “ký ức đè nặng tim ta/ nhịp tim quen tăng cao chững lại/ người đàn bà kiên nghị trong ta mệt mỏi” khiến “câu thơ đã hồi phục rồi cũng đau” và “tiếng thở dài” đã “có khẩu trang che” (Chỉ có tiếng gió). Cũng có lúc thơ xót xa, trắc ẩn, thậm chí bế tắc “ai cũng bảo chết đi cho đỡ khổ/ sướng đâu tới đâu chỉ đau đớn nặng lòng” (Con nam mô gì nữa)…

Trong mọi tâm trạng, nhất là những lúc rối lòng nhất, thơ như người bạn tâm tình để thi nhân “Yên tĩnh làm thơ” (Chủ nhật với hoa cúc). Tự thấy “ta thuộc về thơ đâu cần trọn vẹn/ cứ để lời dở dang lơi lỏng nỗi niềm” (Câu kết bài thơ); “đi tìm suốt một đời cho thơ/ hoang đường những giấc mơ khó bỏ” (Cho thơ lời âu yếm cũ)…

Thơ chị khắc khoải tâm trạng, chứa chất bao nỗi niềm, buồn đau, nghịch cảnh… Nhưng bên cạnh đó là một tâm thế khác đầy nội lực vươn lên, chiến thắng nghịch cảnh khi chị trải lòng với Hà Nội, bạn hữu và những người thân yêu. Thơ chị vì thế luôn dào dạt cảm xúc. Hà Nội là một phần máu thịt “cho tôi chạm ký ức xưa Hà Nội” (Căn nhà cũ). Chị yêu Hà Nội thao thiết với vẻ trầm tĩnh, lắng sâu với “ly cà phê pha kiểu hôm nay/ nơi này không có dáng mẹ/ Hà Nội phố chật chội/ cà phê phố cổ lặng lẽ” (Cà phê phố cổ); Hà Nội là “nơi có những người đàn bà thấp nhỏ như phố xưa Hà Nội/ căn nhà cũ ân cần chật chội vụng về chén trà mạn phôi pha” (Căn nhà cũ). Hà Nội xanh bền trong chị “tôi chạy vội/ người trên đường chạy vội/ mưa nhanh hơn bước chạy/ Hà Nội mùa thay lá/ tôi dẫm lên mưa lá/ gió tạt chao quang gánh/ người đàn bà nghiêng theo rau/ rớt xuống lòng đường/ tôi chạy vội/ bỏ lại đằng sau cơn dông” (Ghi theo mưa). Bài thơ “Hà Nội ơi đêm lạnh” là tâm trạng chuyển mùa để thấy “Hà Nội vào đông yên ắng lạ/ chỉ những hàng cây xao xác không đâu/ ngày muộn rồi muốn hẹn thơ lúc đêm sâu/ khoác vai trên phố vắng/ lời yêu đương có hòa âm gió lạnh/ có một Hà Nội năm tháng bền lâu”. Hà Nội bền găm ký ức người con yêu Hà Nội dù là tuổi thơ đến khi mái đầu điểm bạc xóa “thơ thẩn tuổi thơ lang thang trắng mái đầu/ ta nhớ mẹ gầy như phố nhỏ/ hàng cây bên đường lá non tơ/ bạn ôm cặp chờ ta đi học/ hai bím tóc dài thương nhớ/ nơi đâu// đừng cười ta/ người đàn bà làm thơ bao tuổi vẫn dại khờ/ cứ luẩn quẩn thu sang đông tới/ cứ giá như để rồi không thể/ trắng bợt mái đầu thơ vẫn xanh xao (Hà Nội ơi đêm lạnh)…

Thơ về Hà Nội đâu chỉ cảnh sắc thiên nhiên, trầm tích văn hóa mà có một Hà Nội mới đậm tính thời sự cùng cả nước gồng mình chống đại dịch covid19 với “Phiếu đi chợ”, “Phố giãn cách”, “Sau một đêm”… Chị có nhiều bài thơ ám ảnh về đại dịch đã làm xáo động cuộc sống bình thường “Hà Nội thức sau một đêm/ tinh mơ nháo chợ nháo siêu thị/ chẳng cần thịt sạch rau sạch/ chẳng hỏi của ta của đâu/ nhanh tay/ nhanh tay/ chỉ một đêm/ chỉ một sáng/ đổi thay phố xá/ con người tha vi rút cùng du lịch/ vi rút bám vào sinh sôi/ lời chửi rủa/ lời thóa mạ/ lâu không dùng râm ran/ tà áo dài tháng Ba bay trên trang facebook/ những người đàn bà lo chợ ngày dịch bệnh không quên làm đẹp”. Nhà thơ quan sát “bên đường đôi người yêu không đeo khẩu trang nói gì khi bị phạt” (Phố giãn cách); chạnh buồn khi “công viên khóa lâu rồi/ không tỉa tót cỏ xanh màu cỏ dại/ người đi bộ ngóng mỏi/ người chạy quanh hồ sớm nay cũng không/ góc phố chợ mua bán cỏn con/ một hai hàng liệu mai còn bán”. Những khái niệm giãn cách, cách ly cũng khiến “thơ ơi sao đi không đợi/ câu chữ nhiều rồi tình cũng không/ đã gần bao giờ mà cách ly/ thơ nhiễm dịch đâu mà nghi ngại/ thì cứ tự mình cảnh giới/ tự mình giãn cách thêm ra”… Cầm “Phiếu đi chợ”, nhà thơ cảm nhận như “gọi nhau về với ngày xưa ấy” – ký ức thời bao cấp “cái thời bốc thăm/ rủi và may” trong một “mảnh giấy gấp” – cái thời “tem phiếu lưu dấu ấn một thời” với “rổ rá xếp hàng/ lo tem phiếu/ rau thịt chia… tem phiếu phân nhiều ít thấp cao”. Dẫu bao bộn bề trong cuộc chiến căng mình đó thì thơ chị vẫn là chất Hà Nội đằm sâu, lắng đọng trong tâm hồn thơ giàu nội lực bởi “tháng Ba vẫn còn đó sắc xuân” (Sau một đêm); “những ngày vắng chợt nhớ thương con phố… phố giãn cách vẫn mua được bó cúc vàng đẫm màu nắng/ bó hoa trên tay có là cần thiết” dẫu “hôm nay chưa đến ngày rằm” (Phố giãn cách). Đọc câu thơ này của chị tôi bỗng nhớ “Hỡi những người yêu hãy ghé mua hoa” (Tố Hữu). Thời giãn cách mỗi người lắng chậm lại để yêu thương và chị thấy “trước bàn phím soi sáng lại chính mình” và sẽ buồn lắm nếu “một ngày không thơ” (Dự báo)…

Thơ viết về cha mẹ luôn ấm áp như một nơi vịn tựa tin yêu “tôi là miếng cắt non từ mẹ/ sinh mệnh nhỏ nhoi thuộc về tôi từ đấy/ định hình/ vẽ một cung đường mẹ uốn tôi/ lưu nét cô đơn của mẹ/ tôi làm thơ” (Mẹ & tôi); “tóc bạc rồi con vẫn cần có mẹ… nén nhang này con thắp tới mẹ không/ quần áo bạc tiền đốt thành tro thưa mẹ” (Con nam mô gì nữa); “vọng về cha một nén tâm hương/ lời con gửi đêm nay/ nghĩa trang làng mờ hơi sương gió/ người con gái xa cha từ ngày ấy lọt lòng” (Gửi cha ngày thanh minh)…

Thơ chị có nỗi đau thế sự với tấm lòng bao dung, nhân ái, nhà thơ đồng cảm với người làm xe ôm, người gánh hàng rong, người đàn ông già mài dao kéo…

Là tập thơ thứ 11, Bùi Kim Anh đã định hình, thủy chung, vẹn nguyên tạo nên một phong cách sáng tác. Thơ chị mang cái tôi riêng, giọng điệu riêng độc đáo của một hồn thơ rất mực đàn bà vừa phóng khoáng lại vừa kín đáo, dung dị; vừa mạnh mẽ, bản lĩnh lại vừa dịu dàng, tinh tế; vừa có nỗi ẩn ức, nghi ngại, trắc ẩn, lại vừa có sự quyết đoán, trí tuệ, nhân hậu; vừa mang âm hưởng dân gian, lại vừa rất hiện đại…

Bùi Kim Anh làm nhiều thể thơ: thơ tự do; thơ 6 chữ (Buồn ta âu cũng mấy người); thơ 8 chữ; thơ lục bát (Lục bát hai câu, Chi bằng ta gọi mình hay…)

Làm thơ lục bát hay, nhưng không đơn giản nếu không nắm chắc vần luật, thanh điệu. Thơ lục bát Bùi Kim Anh khá độc đáo “bây giờ tôi dựa vào tôi/ hoàng hôn dựa vạt nắng rơi cuối chiều” (Lục bát hai câu); “sang hè ngại lúc qua đường/ nấp bóng râm lại ngại vương vấn mùa”; “cái câu lục bát loang toang/ nối vần thôi lại ngỡ sang nhất mình” (Đã quen mất nết đi rồi); “xoàng xĩnh xếp chật tủ rồi/ xa xỉ thì đắt, túi vơi cạn nguồn” (Dạo phố đồng tiền cỏn con); “lá đa nhặt ở sân đình/ bày ra hong cái nỗi tình buồn khô” (Lẻ loi một mối buồn thưa…)

Câu thơ rất gợi bởi hình ảnh đối lập “ta không ngủ khiến đêm phải thức” (Giấc đầu tiên của năm).

Dù âm tiết trong một dòng thơ kéo dài, nhưng nhà thơ vẫn chú ý phối vần điệu, thanh điệu:

Tôi thu tôi trong vạt váy hoa phô sắc lời vô duyên mắc lại

Phố cũ và hàng cây lâu đời còn mãi

Và những người đàn bà trong căn nhà cũ” (Căn nhà cũ)

Ở các tập thơ trước, ngoài tập Đi tìm giấc mơ (chữ in hoa), các tập “tóc trắng nắng mai”, “hình như mùa đã lỡ”, nhà thơ Bùi Kim Anh thường không viết hoa chữ đầu tên tập thơ; chữ mở đầu mỗi dòng thơ; hạn chế dấu câu, thì đến tập thơ “thức bước thời gian” hạn chế tối đa dấu câu (ngoài mấy bài có dấu… và một bài có dấu chấm cuối bài); tên tập thơ không viết hoa; tên bài thơ chữ in hoa. Có lẽ đây là chủ ý của chị, nhưng thực ra, tôi vẫn chưa quen…

Xin chúc mừng nhà thơ Bùi Kim Anh bước vào tuổi 75 với cuốn sách thứ 12 đậm đà phong cách sáng tác riêng của chị:

Thất thập ngũ niên gieo mây trắng/ Mười hai mơ thức gặt giấc mai 

Theo Lê Thị Bích Hồng/Vanvn