Đã lâu mới gặp lại, bạn thơ Hà Nội hỏi tôi: “Mình có cô học trò là Trần Thanh Bình ở Sài Gòn, học viên lớp bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du khóa 12 lâu nay vắng tin không thấy viết gì, ông có biết cô ấy không?” Tôi nói “Không biết”. Một tháng sau, tôi nhận được tập thơ có tên là Lập trình tia nắng mai, do bạn thơ nói trên giới thiệu. Thì ra cái sự “vắng tin” trên đây là có lý do: Sau khi học lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam, tác giả Trần Thanh Bình có sự chuyển đổi bút pháp. Mới nghe cái tên tập thơ đã linh cảm điều đó.
Tìm cho mình một lối đi khác
Mấy tập thơ trước, Trần Thanh Bình viết theo bút pháp truyền thống, có tập 100% thơ lục bát. Đến tập Lập trình tia nắng mai, tác giả chuyển đổi sang thơ đổi mới: Hầu hết là thơ tự do, rất phóng khoáng mới mẻ. Lục bát cũng có mặt ở tập này nhưng chỉ khoảng trên mười bài, những bài này cũng mới mẻ khác trước nhiều lắm.
Thơ lục bát có điều dễ và khó riêng. Nhiều khi cái “dễ” của thể loại lục bát đánh lừa ta, đó là trường hợp khi chưa có ý tứ gì, nhưng sẵn có cái “khung sáu tám” quen thuộc, người viết cứ tựa vào khung đó, có sao nói vậy mà diễn ngôn đặt vô khung. Cuối cùng cũng thành bài lục bát đủ vần điệu, nhịp nhàng uyển chuyển, dễ đọc, dễ thuộc. Nếu có giọng tốt ngâm ngợi, có đàn sáo réo rắt kèm theo uyển chuyển du dương, người nghe cũng dễ bị lôi cuốn. Nghiêm túc mà nói, “có sao nói vậy” thì nó chỉ “giống như thơ” chứ chưa phải thơ mà chỉ là văn vần mà thôi (Nhân tiện bàn sâu chút về học thuật thì nói cho hết nhẽ như thế, còn ai muốn gọi những bài văn vần đó là thơ thì cũng chẳng sao, chả ai cấm).
Thơ đích thực đòi hỏi khắt khe nhiều yếu tố như ý tưởng sâu sắc mới mẻ, cảm xúc chín, sự rung động mạnh mẽ, hình ảnh, ngôn từ sáng tạo, sự hàm súc cần thiết… Thơ đổi mới không có “cái khung” nào để tựa như lục bát, nên có cái khó riêng. Nếu không có những yếu tố như trên đây thì dễ bị “đổ” lắm. Trần Thanh Bình chuyển từ thể thơ truyền thống sang thơ đổi mới là quyết định đúng đắn hợp thời đại. Và, tất nhiên chấp nhận cái sự khó khăn vất vả đi kèm.
Từ năm 1986, đất nước ta đổi mới toàn diện, văn học cũng đổi mới mạnh mẽ, trong đó có thơ. Đổi mới thơ, quan trọng nhất là hệ thi pháp. Vấn đề này, tôi có viết bài trên báo Văn nghệ số 11- 2016, trong đó có câu tóm gọn như một định lý khoa học: Hệ thi pháp cũ: Kể, tả, suy luận, kết thúc đóng (nghiêng về cổ vũ, động viên). Hệ thi pháp mới: Nghĩ, cảm, suy tưởng, kết thúc mở (nghiêng về chia sẻ nỗi niềm).
Tác giả Trần Thanh Bình có cố gắng chuyển đổi hệ thi pháp mới. Trong bài Day dứt: “Giọt sương gõ rỗng đêm/ gọi sao mai khép cửa/ Buồn như gối mền cứ mãi phẳng phiu”. Câu chữ cô đọng hàm súc. Đặc biệt câu cuối rất tâm trạng. Hình ảnh “gối mền phẳng phiu”. Đây là câu đặc sắc, hay nhất bài, viết được câu thơ này thật không dễ chút nào.
“Em khám phá luống cày và dòng chữ/ mong tìm một lối đi” (bài Dòng chữ – Luống cày). Thì ra thời gian mà người bạn thơ của tôi bảo Trần Thanh Bình im lặng chính là tác giả đang “tìm một lối đi”. Trong lao động thơ, tìm cho mình “một lối đi” là rất cần thiết, việc này khó khăn bậc nhất. Có được lối đi riêng, thơ có giọng điệu riêng là công việc hàng đầu của nhà thơ.
Nhờ thơ tự do đổi mới khoáng đạt, Trần Thanh Bình viết được nhiều câu thơ khỏe khoắn, sâu sắc: “Thu nhan sắc bão giông/ Thu nghĩa tình hóa giải”. Trong bài Khoảnh khắc giao mùa có câu: “Chứng kiến lễ nghi giữa cuộc tình mùa thu và đông chí/ Tích lửa nồng tan biến giá băng”. Đoạn trích sau đây lại đặc sắc về ý tưởng thơ: “Xòe tay chị thấy mình nghèo/ gối đầu tiếc ngày dài chưa mở/ bật then đêm hứng lớp lớp sao rơi/ gõ cửa ngày mai trở về đầy ắp/ chị trở thành triệu phú những điều buông” (bài Buông)
Cái hay của đoạn thơ trên ở tương quan nghịch lý và tương phản: “chị thấy mình nghèo” nhưng có sự chuyển biến trong nhân sinh quan, nhân vật chị bỗng trở thành “triệu phú” bởi những điều “buông”. Ở đây thấp thoáng triết lý Phật giáo.
Thơ bám sát thực tế xã hội và có tầm khái quát
Bấy lâu nay nhiều người chê thơ ta ít quan tâm đến thực tế xã hội. Điều này có cơ sở. Bao nhiêu chuyện đời, nhân tình thế thái, những chuyển động thời cuộc… ít được các nhà thơ quan tâm mà chỉ thấy thổ lộ tình cảm, cái tôi cá nhân được chăm chút quá nhiều. Đặc biệt là thơ tình mà phần lớn là tưởng tượng, tức… tình giả. Văn chương tối kỵ cái giả. Có phải vì thế mà công chúng ngày nay thờ ơ với thơ? Người in thơ nhiều hơn người mua thơ! Người làm thơ nhiều hơn người đọc thơ!
Đến tập thơ Lập trình tia nắng mai, tác giả đổi thay một cách quyết liệt. Gần gũi nhất, trong bài thơ viết về nỗi nhớ người mẹ vất vả nơi đồng quê: “Mỗi hạt lúa cõng từng con chữ/ con cua đâu phải bò ngang/ giương cặp mắt nằm im trong giỏ/ đổi cho con dòng chữ thẳng hàng”. Những câu thơ chắc nịch, “mỗi hạt lúa cõng từng con chữ” là hình ảnh rất đẹp. “Con cua bò ngang” tương quan với “dòng chữ thẳng hàng” lại là một sáng tạo nữa.
Lại nhớ câu thơ máu lửa của nhà thơ vùng châu mỹ la tinh Octavio Paz “Đồng tiền liếm khô máu thế gian”. Xin thưa: thơ cách tân Việt Nam không hiếm câu ngang ngửa. Trong bài 239 bậc của Trần Thanh Bình nói về những bậc đá ong lên ngôi chùa cổ kính tác giả kết hợp hình ảnh cổ xưa và cách tân, gây được cảm xúc suy tưởng phong phú sâu sắc: “Nhớ lối lên Chùa Tây Phương 239 bậc/ đá rêu mờ kết mây trắng dưới chân/ mang nặng tấm lưng còng/ mây gió đỡ mẹ lên từng bậc/ mẹ chống gối bước lên từng bước gánh gồng…/ Đêm thật dài giấc mơ thì ngắn/ mẹ choàng sương giá làm khăn”.
Trong mùa bão lũ năm 2020, miền Trung của chúng ta chịu thiệt hại quá nhiều, cả nước cùng kiều bào hải ngoại và một số quốc gia trên thế giới đã góp tiền, của giúp đỡ bà con bị mất mát người và của. Trần Thanh Bình viết về sự chia sẻ thật cảm động: “Em học sinh nhịn quà sáng góp tiền/ suất hỗ trợ tuổi già tay run run trao gởi/ muôn trùng biển cả bỗng gần trong tấc gang”. Đặc biệt trong bài này, tác giả nhắc đến cái đẹp của mùa “nhan sắc” đồng thời nhắc nhở chúng ta cũng là mùa thu “bão giông”, tức là cái đẹp kèm theo sự tàn phá phũ phàng của thiên nhiên. Một phát hiện tưởng bình thường nhưng càng ngẫm nghĩ càng thấy sâu sắc.
Một mảng hiện thực khác, đó là vài mươi năm trở lại đây nhiều em gái mới trưởng thành hay chưa kịp trưởng thành từ quê ra phố kiếm công ăn việc làm, kiếm cơ hội đổi đời, may ít rủi nhiều và không ít bi kịch: “Hôm nay trăng cùng tôi ra phố/ trăng lạ lẫm trước chớp đèn xanh đỏ/ ánh trăng nào cũng nức nở phấn son/ tôi tủi hổ với trái xoài trái bưởi” (bài Trăng từ làng ra phố). Câu cuối “tôi tủi hổ với trái xoài trái bưởi” là một nét tâm trạng rất đáng chú ý, cũng là lời nhắc nhở khéo léo với các em.
Quê ngoại ở Thái Bình, tác giả có bài Đất người Thái Bình: “Người nông dân Thái Bình hiền như đất/ bao danh nhân không chịu đói nghèo/ Nguyễn Công Trứ uốn cong bãi biển/ lập ấp lập làng trù phú nuôi dân”. Ở bài này, tác giả khái quát, chấm phá về đất đai, con người, lịch sử Thái Bình gian truân và nổi tiếng về nhiều mặt, có nhiều danh nhân ghi dấu ấn vào sử sách. Bài thơ có dáng dấp sử thi. Một bài thơ viết về một đề tài như thế là khó. Nhưng ở đây, bài thơ khá phong phú về chất liệu thực tế… Sự nỗ lực của tác giả là rất đáng ghi nhận.
Liên tưởng xa hơn nữa, trong bài Cha Trời – Mẹ Đất: “Bầu trời phân lô/ mặt đất phân lô/ tầng ozon lỗ chỗ/ màu xanh nhạt dần mây đen vần vũ/ mắt người ngơ ngác hơi thở đóng băng/ dòng máu về tim tắc dần không lối thoát/ Bầy vi rút bất kham/ sức mạnh “văn minh” bất trị”. Trong bài này, tác giả dung hình ảnh cụ thể gần gũi, vi mô (“phân lô”) nhưng lại khái quát ở tầm vĩ mô (“bầu trời, mặt đất”). Đây là một sáng tạo táo bạo. Bài thơ này vừa được giải thưởng thơ hay trong Hội Thơ Nguyên Tiêu 2021 của Hội Nhà Văn Tp. Hồ Chí Minh.
Một số bài thơ khác cũng giàu chất hiện thực đời sống xã hội như Men quê, Trăng từ làng ra phố, Bến lục bình, Lớp học online… Chất hiện thực nóng hổi cộng với liên tưởng mạnh mẽ, khiến nhiều bài tạo được ấn tượng tốt trong lòng người đọc.
Trẻ trung và tinh tế
Trong tập Lập trình tia nắng mai, Trần Thanh Bình có nhiều bài thơ sâu nặng về nỗi niềm riêng tư, thơ tình cảm. Ở mảng này, tác giả cũng có nhiều bài gây ấn tượng tốt bởi hình ảnh, cấu chữ chọn lọc kỹ càng, tránh những câu trung tính, dễ dãi…
“Một ngày bóc nõn giấc mơ/ bóc hoàng hôn để đón chờ bình minh/ đừng ai bóc cái chung tình/ bóc lời hẹn ước để mình không ta” (Chung tình). Hình ảnh “bóc nõn giấc mơ” là rất mới mẻ, đẹp, để rồi tác giả liên tưởng “bóc cái chung tình” là một bước tiến mới trong sự liên tưởng vừa cụ thể vừa trìu tượng. Người non tay khó có thể viết được những câu như thế.
Đoạn thơ sau đây lại tinh tế ở khía cạnh khác: “Em mong một áng sao mai/ đốt tầng hoang phế đốt chai sạn lòng/ nhú ra vạn vật xanh trong/ gió non nghiêng hết lúa đòng vào em” (Hơi thở bàn chân). Gió vốn khó nhìn thấy, vậy mà tác giả nhận ra được gió thổi trên cánh đồng lúa đang ngậm đòng là “gió non”, một hình ảnh tinh tế, tươi tắn, trẻ trung và đương nhiên là rất đẹp.
Thơ Thanh Bình luôn gắn bó với thực tế xã hội, nhưng cũng giàu chất suy tưởng. “Tiếp theo giọt sương rơi/ từng cánh hồng héo dần rồi rũ xuống/ khóc tiễn đưa bao cái đẹp hết mình” (Đóa hồng và giọt sương). Những cánh hồng sau thời gian thắm tươi rực rỡ nhất, đến lúc héo tàn thì ai cũng thấy, nhưng tác giả lại nhìn thấy cái khác nữa, đó là bao nhiêu cái đẹp trên thế gian này sau khi đã cống hiến hết mình thì đều ra đi, nhường chỗ cho những cái đẹp mới. Và những cánh hồng này rơi xuống như những giọt lệ khóc tiễn đưa. Một cái nhìn rất tinh tế và nhân văn.
Và tôi đặc biệt chú ý mấy câu thơ này: “Từ trong đáy mắt xa xôi/ bóng người ẩn hiện đang ngồi giữa trăng/ âm giai vũ trụ san bằng/ nguyên sơ bản thiện sáng vằng vặc soi” (Cảm hứng từ bức tranh “Người thổi sáo mù”). Tôi có biết bức tranh ấn tượng này, nhất là đôi mắt rất ám ảnh của người thổi sáo mù. Trần Thanh Bình có bài thơ về bức tranh với những câu thơ cũng rất ấn tượng và ám ảnh có pha chút bí ẩn. Mà đã bí ẩn thì… có lẽ miễn phân tích hay thẩm bình gì, chỉ biết đó là sự phong phú của một tâm hồn thơ.
Khó mà phân định rạch ròi thơ Trần Thanh Bình thuộc dòng hiện thực hay lãng mạn. Chính xác là cả hai yếu tố ấy được hòa quyện một cách nhuần nhị, tinh tế. Đó là một ưu điểm nổi bật trong tập thơ Lập trình tia nắng mai, dấu ấn rất rõ nét về sự chuyển đổi bút pháp, thi pháp.