Một thời thanh xuân…

498

Châu La Việt

(Vanchuongphuongnam.vn) – Mùa hạ 1969 tôi lên đường nhập ngũ. Buổi tối trước ngày lên đường, Nguyễn Trường Phước đến thăm tôi. Hai đứa lững thững đi dọc con phố ngắn Lê Phụng Hiểu tôi ở, mùa này thường có những cơn mưa và những bông hoa sấu phủ một lớp thảm tím trên măt đường. Đến vườn hoa con cóc đầu phố, chúng tôi chọn một ghế đá ngồi xuống tâm tình. Phước mua hai que kem của một chú bé bán kem đi qua, gọi là đãi tôi ngày mai lên đường…

Nhà văn Châu La Việt

Nguyễn Trường Phước hơn tôi một hai tuổi, trong khi tôi mới tốt nghiệp phổ thông, thì anh đã là sinh viên khoa văn trường đại học tổng hợp. Chúng tôi biết nhau và quý mến nhau vì chung một tình yêu thơ ca, chung một nguyện ước trở thành thi sỹ. Trường Phước hay đọc cho tôi nghe những bài thơ đầu đời của anh, giọng đọc nồng nàn, sôi nổi, nhưng ý thơ thì lại nhiều triết lý, suy tư. Tôi cũng hay đọc anh nghe những bài thơ còn vụng dại của tôi, được anh rộng lòng động viên là thơ Việt trong trẻo lắm…

– Mình cũng bất ngờ nghe tin Việt ngày mai nhập ngũ. Nhưng như thế cũng tốt Việt ạ. Thơ ca phải song hành cùng bước đi dân tộc, nhà thơ cũng phải như người lính lên đường. Mình cũng mong được lên đường lắm, nhưng lũ sinh viên chúng mình chưa đến lúc. Được lên đường như Việt là hạnh phúc lắm. Việt trở thành nhà thơ trẻ nối dài vào đội ngũ những nhà thơ ra trận, như các anh Phạm Tiến Duật, Nguyễn Trọng Định, Ca Lê Hiến hay Thanh Thảo, Nguyễn Văn Long bạn học của mình… Mình tin trong đạn lửa, thơ Việt sẽ hay hơn…

Trường Phước nói nhiêt tình, say sưa, không đơn thuần chỉ là động viên tôi, mà thực sự là thắp lửa cho tôi. Bởi dù ngày mai lên đường vào mặt trận rồi, nhưng tôi vẫn là một thằng con trai nhiều non nớt. Cảm ơn ngọn lửa đêm ấy anh thắp cho tôi, để rồi nó cứ bập bùng cháy mãi trong tôi những tháng năm lửa đạn.

Cuối buổi tâm tình khi trời cũng đã khuya, Trường Phước lấy từ trong túi ra trao tôi một cuốn sổ nhỏ:

– Mình tặng Việt cuốn sổ nhỏ này, bao gồm nhiều ghi chép tinh túy về văn học, nhất là về thơ ca Nga mình được thầy Hoàng Ngọc Hiến trao gửi… Mình tặng Việt để làm hành trang cho một nhà thơ trẻ lên đường vào mặt trận. Mạnh khỏe Việt nhé, và làm được nhiều thơ hay gửi ra cho chúng mình đọc với nhé…

Tôi run run đón nhận cuốn sổ từ tay anh, và nghe những lời tiễn biệt của anh, mà tưởng như có những dòng nước mắt đang dào ra trên má. Xúc động không thể nói nên lời…

Thú thực cũng thời gian này, tôi còn được tặng một cuốn sổ tay văn học khác, của một bạn học cùng trường, biết tôi yêu văn học và chuẩn bị lên đường nhập ngũ, bạn đã thức liền mấy đêm, chép vào một cuốn sổ cả một vở kịch Ê đốp… như ”Thay lời muốn nói” tặng cho tôi lên đường.

Thế là sáng hôm sau ra đi, trong chiếc túi xách nhỏ của tôi có một hộp bánh bà tôi mua bằng tiêu chuẩn cao cấp của ông tôi, hai cuốn sổ tay văn học của Trường Phước và của người bạn gái ấy trao tặng. Đấy là tất cả những gì của một người lính ra trận là tôi…

*

Cũng như mọi người lính vượt Trường Sơn để vào chiến trường, dù Trường Sơn Đông hay Trường Sơn Tây, để vượt qua những núi cao vực thẳm, đều phải vứt bỏ đi nhiều hành lý cho nhẹ đôi vai. Nhưng với tôi, hai cuốn sổ ấy, dù có nặng thêm hàng tấn nữa tôi cũng luôn mang theo bên mình. Bởi trong đó không chỉ có những tri thức quý giá, những bài thơ hay, mà còn có hai quả tim của hai người bạn yêu quý hằng đập theo mình trên mỗi bước đường hành quân. Càng trong lửa đạn, càng thấy nó quý giá vô cùng.

Nhưng ngay khi đặt chân tới mặt trận, ngay trong trận đánh đầu tiên, tôi đã tưởng bị cướp đi tất cả. Trận địa pháo mù mịt khói lửa, những chiếc F4, F105 của địch ào ào lao tới ném bom, đất trời ngả nghiêng, chúng tôi trên mâm pháo và bắt đầu trận đánh đầu tiên của đời mình. Khi trận đánh dứt, khấu đội chúng tôi thương vong nặng nề, pháo thủ Giang hy sinh, pháo thủ Chuân bị thương nặng. Hai anh là khẩu đội trưởng Công Chính và Hóa võng anh Giang lên mặt đường, chờ xe đưa về nước chôn cất. Còn tôi, Thái và Kiều võng anh Chuân đi cấp cứu nơi quân y viện. Dọc đường đi, vừa lo âu cho vết thương anh Chuân, muốn võng anh tới viện thật nhanh, mà cũng vừa lo âu phía sau ấy, không biết bom Mỹ có đánh tan hoang căn hầm mình ở hay không, chiếc ba lô của mình có hai cuốn sổ tay quý giá ấy có còn hay không, hay đã cháy thành than? và không biết nếu các anh di dời trận địa, có nhớ mang giúp cho mình chiếc ba lô ấy theo không? Ngay khi bàn giao anh Chuân cho quân y viện, chúng tôi cũng chẳng kịp nghỉ ngơi tìm một bánh lương khô để ăn cho ấm bụng, mà ba chân bốn cẳng chạy ngay về Bản Ban, nơi có trận địa pháo cao xạ 37 của mình

Sau trận đánh đầu tiên ấy trận địa chúng tôi khét lẹt những trận chiến đấu mới. Quân thù như càng tàn bạo hơn, đánh phá con đường và những trận địa pháo dã man hơn. Không chỉ anh Giang, anh Chuân mà nhiều người lính khác hy sinh, trong đó có cả chỉ huy đại đội. Anh Hoàng Ngọc Chấp từ là trợ lý tham mưu tiểu đoàn được đưa về làm đại đội phó. Nhớ ngày đầu mới bổ sung về tiểu đoàn, khi anh Chấp dến hướng dẫn chúng tôi kỹ thuật, yếu lĩnh chiến đấu cao xạ pháo, không hiểu vì sao anh đã mến tôi, và liền đề nghị giữ tôi lại tiểu đoàn bộ, sung tôi về tiểu đội trinh sát của tiểu đoàn do anh trực tiếp phụ trách. Nhưng sau khi cân nhắc, tham mưu trưởng Hoàng Anh Phúc vẫn quyết định đưa tôi vể C 12, vì anh em ở đây hy sinh nhiều quá, thiếu hụt nhiều quá. Không dè chỉ một thời gian sau, cũng chính anh Chấp lại được bổ sung về C 12, làm đại đội phó, sau đó là chính trị viên đại đội. Và anh đã đưa tôi về làm liên lạc viên của anh, ngày đêm ở cùng một gian hầm, cùng ăn chung một mâm cơm với anh. Và bởi thế, tôi mới phát hiện ra anh là một người lính dạn dày trận mạc, bom đạn, nhưng cũng là một người línhh rất yêu văn học nghệ thuật. Sau những trận đánh ác liệt, anh thường mượn tôi hai cuốn sổ tay văn học của Trường Phước và của người bạn gái của tôi để ngốn ngấu đọc, nhất là cuốn sổ tay của Trường Phước, bởi ở đó có nhiều tri thức rất mới lạ với anh…

Cuối mùa khô năm ấy, bỗng nhiên tôi có quyết định gọi về Binh Trạm bộ. Anh Chấp ngạc nhiên lắm, chả hiểu thế này là thế nào. Bởi anh đang muốn bồi dưỡng kết nạp tôi vào Đảng, rồi đưa xuống làm khẩu đội trưởng (Khẩu đội trưởng trở lên phải là Đảng viên). Anh bần thần, bực dọc :”Để mình gọi điện cho ông Phúc tiểu đoàn trưởng hỏi cho ra vấn đề. Vớ vẩn, Hoài cứ ở lại đây, không đi đâu cả!”. Nói vậy, chứ với quyết định của cấp trên, bố ai có thể không chấp hành! Thế là tôi phải khoác ba lô ra đi, ra đi mà vẫn không hiểu mình sẽ đi tới đâu, đơn vị nào, sống chết ra sao. Nhất là ngày ấy, chiến dịch “cù kiệt” (nghĩa là trả hận) của quân thù đã nổ ra, chiến trường ngày thêm ác liệt, người lính có thể ngã xuống bất kỳ lúc nào…

Chia tay đại đội, chia tay anh Chấp, tôi nói với anh: ”Em phải đi rồi anh ạ… Cũng có thể sẽ gian khổ, ác liệt hơn những ngày em được sống với các anh… Cũng có thể em sẽ không có ngày trở lại đại đội, trở lại gặp các anh nữa… Em xin tặng lại anh hai cuốn sổ tay văn học của hai người bạn rất thân của em ở Hà Nội tặng em. Anh cứ giữ lấy mà đọc, bởi em hiểu anh là người rất yêu văn học, rất yêu cái đẹp ở cuộc sống này. Quà tặng của bạn em, nhưng nếu một mai em hy sinh, không về với đơn vị, với các anh nữa, thì anh hãy coi đây là vật kỷ niệm của một người đã mất. Anh hãy giữ làm kỷ niệm về em và các bạn Hà nội của em anh nhé”.

Anh Chấp ôm lấy tôi, lần đầu tiên tôi thấy anh khóc, khóc một cách nức nở ướt đầm ngực áo tôi….

*

40 năm sau, trong một lần cùng Dương Minh Đức, Quang Thọ, Quang Huy… về biểu diễn ở miền sông nước Cần Thơ, tôi đã quyết đi tìm lại trung đoàn pháo cao xạ 226 của tôi năm xưa, tìm lại anh Hoàng Ngọc Chấp. Thấy tôi bước vào nhà, anh xúc động quá, ôm chầm lấy tôi như ngày nào anh tiễn tôi đi… ”Thằng Hoài, ôi thằng Hoài” Anh ôm lấy tôi, vỗ vỗ vai tôi, và cứ reo lên như vậy…

Thế là miên man suốt chiều ấy, tôi và anh đã ngồi ôn lại với nhau không biết bao chuyện về đơn vị của mình, đồng đội của mình. Có thể tóm tắt là, sau khi tôi rời xa đại đội, cũng là khi mặt trận càng ác liệt hơn, đại đội vào sâu hơn nữa ngay giữa Cánh đồng Chum. Có lúc ngửa pháo lên bắn máy bay giữa trời, mà cũng có lúc chĩa pháo xuống bắn lũ bộ binh dưới chân núi… Rồi từ phía Tây, đơn vị hành quân về phía Nam, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh trong đội hình Quân đoàn 4. Từ tháng 1-1976, lại được điều về QK9, bảo vệ bầu trời phía Tây Nam Tổ quốc…

Bỗng anh Chấp sững lại, như sực nhớ môt điều gì: “Hoài còn nhớ hai cuốn sổ Hoài tặng mình năm ấy không nhỉ? Hồi ấy Hoài cứ gở mồm nói là “vật kỷ niệm của người đã mất” ấy! Nói thật hai cuốn sổ ấy mình quý lắm, nâng niu lắm. Thế nhưng rồi khi tiểu đoàn mình về E 226, mình được đưa về làm sỹ quan chính trị của Trung đoàn, gặp ở đấy một cậu lính, cũng nguyên là một chiến sỹ chiến đấu rất dũng cảm ở một tiểu đoàn mới được điều lên, lại ngày trước cũng là một sinh viên tổng hợp văn, và đang là nhà thơ trẻ của trung đoàn, mình đã tặng lại cậu ấy cả hai cuốn sổ của Hoài. Mình nghĩ là nhà thơ như cậu ấy, lại từng là sinh viên tổng hợp Văn, mới xứng đáng là chủ nhân của hai cuốn sổ này. Mình nói với cậu ấy đây là vật kỷ niêm của con trai một người nghệ sỹ từng là lính của đơn vị đã trao tặng cho mình ngày ở Bản Ban trước lúc đi xa, cậu ấy cảm động lắm. Cậu ấy tên là Thái Kế Toại, làm thơ với bút danh là Lê Hoài Nguyên Hoài ạ…

Ôi Lê Hoài Nguyên, tôi đã từng đọc thơ của anh ấy, và thấy rất cảm tình. Có ngờ đâu anh cũng từng cùng một đơn vị với tôi, từng là những thằng pháo thủ đánh đến bỏng rát nòng pháo ở E 226, ở Bản Ban Cánh đồng Chum. Và nhất là cũng từng rất yêu thi ca, khao khát viết những vần thơ nóng bỏng nơi lửa đạn…

Ngay khi nghe anh Hoàng Ngoc Chấp kể lại những điều trên, tôi đã rất muốn gặp ngay Lê Hoài Nguyên, chỉ tiếc rằng tôi thì ở TPHCM, mà anh ở mãi Hà Nội xa quá…

Thế nhưng rồi tôi cũng mầy mò được số điện thoại của anh để gọi ra thăm anh. Khi nghe tôi giới thiệu tôi là Châu La Việt, anh reo lên “Ồ Việt ơi, mình vẫn giữ những cuốn sổ Việt trao tặng anh Chấp, rồi anh Chấp lại tặng lại cho mình. Đối với mình, những cuốn sổ ấy quý giá lắm, nhất là cuốn sổ của một bạn học rất thân với mình là Nguyễn Trường Phước”. Ồ – Tôi cũng reo lên – Anh cũng là bạn học thân thiết với anh Nguyễn Trường Phước à?”. Lê Hoài Nguyên nói rất từ tốn, nhưng rất ấm áp: ”Đúng rồi Việt ạ. Mình không chỉ là bạn học, mà còn là bạn rất thân với Nguyễn Trường Phước nữa”. “Ôi, vui quá, bao năm rồi tôi đi tìm Nguyễn Trường Phước mà chưa gặp lại anh ạ. Tôi quý mến và muốn cảm ơn Nguyễn Trường Phước nhiều lắm. Nếu được tới đây tôi ra Hà nội, anh em mình gặp nhau nhé, và nhờ anh dẫn tôi đi thăm Trường Phước nhé”. Tôi thấy đầu giây bên kia bỗng sững lại hồi lâu, rồi tiếng của nhà thơ Lê Hoài Nguyên trầm buồn: ”Việt không biết gì à, Nguyễn Trường Phước mất rồi Việt ạ”. Tôi như muốn nấc lên vì điều đau xót ấy ”Trời, anh có biết không, khi tôi tặng lại cuốn sổ của Trường Phước cho anh Chấp, không hiểu sao tôi lại bảo với anh Chấp đây là vật kỷ niệm của một người đã mất, thế mà hôm nay, nó lại là sự thực. Cuốn sổ của Trường Phước tặng chúng ta, đúng là vật kỷ niệm của người đã mất rồi…

Tôi cũng nghe như ở đầu giây kia, một tiếng nấc vọng lên, tiếng nấc nhớ Nguyễn Trường Phước của Lê Hoài Nguyên…

*

Câu chuyện đến đây đã có thể khép lại, nhưng tôi vẫn muốn kể thêm điều này.

Tôi có một người bạn thân là ca sỹ Ngọc Tân. Năm 1981, đang trên đỉnh cao thì anh vượt biên, và vướng vòng lao lý. Ngày anh được ra tù, được đi biểu diễn theo đoàn ca múa TW ở Hải phòng, anh có mời tôi từ TPHCM ra Hải phòng để hai thằng gặp gỡ. Tôi xúc động lắm, bay ra với anh ngay, và rồi có một đêm, anh pha trà tâm sự với tôi:

– Có hai điều đã lâu rồi tôi rất muốn gặp để nói với ông. Điều thứ nhất là, có một lần trong tù, tôi bị gọi lên để gặp quản giáo và một sỹ quan an ninh. Tôi đã hình dung chắc là những đòn tra tấn nặng nề đây, và sẵn sàng tinh thần chuẩn bị. Nhưng khi bước vào phòng, chỉ thấy một người sỹ quan cứ ngồi đăm đắm nhìn tôi. Một lúc rất lâu sau, anh ta mới nói với tôi rằng: ”Tôi không hiểu tại sao anh đang trên đỉnh cao sự nghiệp, đang được mọi người rất yêu thích, mà lại bỗng bỏ đi như vậy, đánh mất hết tất cả như vậy? Trong khi đó tôi biết, anh có một người bạn rất thân, rất tốt với anh, khổ hơn anh nhiều, nghèo hơn anh nhiều, mà anh ấy có bỏ tổ quốc, bỏ đất mẹ mà ra đi đâu, chắc anh nhớ người đó là ai chứ!”. Nghe người sỹ quan nói thế, tôi thốt lên: “Trương Nguyên Việt”. Người sỹ quan ấy gật đầu: “Đúng, Trương Nguyên Việt. Tôi mong anh nghĩ tới những người bạn ấy của mình, làm lại cuộc đời sao cho tốt đẹp hơn…”.

Tân nói đến đấy, lặng đi một lúc rồi nói thêm: Điều thứ hai là tôi muốn được nói lời xin lỗi với ông. Từ lâu rồi, tôi cứ dày vò mình vì sao ngày ấy ra đi, đã không rủ ông. Ông hằng thân thiết với tôi lắm, và tôi cũng thương ông nhiều lắm. Nhưng thú thật lúc ấy tôi cũng nghèo quá, chỉ đủ tiền để nộp cho gia đình tôi, mà không còn tiền để bao bọc cho ông cùng ra đi. Vả lại, tôi cứ nghĩ rằng, dù có tiền nộp cho ông, chưa chắc ông đã chịu đi, nên tôi đã không rủ ông nữa… Nhưng nói thật khi bước chân lên tàu, ngoái nhìn về Hà Nội, tôi cứ thấy như có lỗi với ông, rất ân hận với ông…

Ngọc Tân nói đến đấy, bỗng khóc nấc lên, như có một điều gì dày vò anh lắm. Tôi nắm lấy tay anh: “Thôi Tân ạ, mọi điều đã qua rồi. Ông đã được ra tù, đã được về gặp lại cha mẹ, con cái, đã được trở lại sân khấu và được người xem vẫn rất hoan ngênh… Thế là tốt lắm rồi. Sau cơn mưa trời đã sáng. Chẳng cần nhắc lại những gì đã qua nữa. Chúng mình vẫn hiểu nhau mà…”.

Cũng đêm ấy, nằm bên Ngọc Tân, tôi cứ nghĩ mãi người sỹ quan an ninh có những lời tốt đẹp về tôi, có những xử sự rất nhân văn với bạn tôi, anh ta là ai nhỉ? Càng về sau này, khi tôi biết Lê Hoài Nguyên (Thái Kế Toại) là một sỹ quan an ninh về văn hóa dạn dày, không hiểu sao tôi cứ ngờ ngợ đó chính là Thái Kế Toại – Lê Hoài Nguyên (dù có thể chưa hẳn là anh, và dù chưa một lần tôi lên tiếng hỏi anh điều này). Nhưng tôi cứ vẫn ngờ ngợ đấy là anh. Đơn giản vì anh là một đồng đội lính của tôi. Đơn giản vì những người lính hằng qua lửa đạn thường rất thương nhau và đối xử với nhau tử tế và nhân ái lắm!

Ôi mong có ngày gặp Lê Hoài Nguyên. Nhưng không phải để hỏi anh điều trên, mà để nói với anh một mong ước đang cháy bỏng trong tôi: Một ngày kia, tôi muốn được in một tuyển thơ chung thật đẹp của ba chúng tôi: Nguyễn Trường Phước – Lê Hoài Nguyên – Châu La Việt, ít nhất là để kỷ niệm một thời thanh xuân trai trẻ của chúng tôi trong lửa đạn.

… Và bây giờ bản thảo tập thơ đã hoàn thành, khi chị Huyền Dung – vợ anh Trường Phước đã trao gửi tôi toàn bộ bản thảo thơ ca của chồng chị, và trong chuyến đi trở lại chiến trường xưa vừa qua, Lê Hoài Nguyên (Thái Kế Toại) cũng đã trao tôi thơ thuở thanh xuân của anh. Vậy là mong ước ngày nào của tôi đã trở thành hiện thực, một ngày gần đây thôi, một tuyển thơ chung của ba chúng tôi: Nguyễn Trường Phước – Lê Hoài Nguyên – Châu La Việt sẽ sớm đến với bạn đọc, ít nhất là để kỷ niệm một thời thanh xuân trai trẻ của chúng tôi trong lửa đạn, cũng như để đáp lại tình yêu rất nồng nàn của đông đảo bạn đọc nhiều năm tháng qua với các anh Nguyễn Trường Phước và Lê Hoài Nguyên…

C.L.V