Nét duyên thầm trong Lục bát tôi của Đặng Nguyệt Anh

881

Hoàng Thị Thu Thủy

(Vanchuongphuongnam.vn) – “Lục bát tôi” đã định hình, định danh cho một phong cách thơ của Đặng Nguyệt Anh, nữ tính, dịu dàng, đằm thắm, mang nét duyên thầm của người con ở quê hương Nam Định – mảnh đất khoa bảng, mảnh đất có nhiều thi nhân nổi tiếng xưa nay.

Tên tập thơ “Lục bát tôi” đã là lời giới thiệu thể loại của nhà thơ Đặng Nguyệt Anh với tất cả 40 bài thơ. Chừng như khá lâu, tôi mới trở lại đọc thơ theo thể lục bát. Mở tập thơ, tôi ngạc nhiên về cách chế bản, câu lục, câu bát đều xuống dòng chia thành nhiều vế. Cứ như vậy mà tôi đọc một mạch, không ngừng, không nghỉ và bất ngờ bởi cái giọng điệu, cái nhịp điệu thể loại lục bát ngấm vào trong máu thịt tôi tự bao giờ, từ khi dạy ca dao, hay từ khi giảng “Truyện Kiều”, mà tôi yêu các vần thơ của chị Đặng Nguyệt Anh đến lạ.

Cuối tập sách chị có nhắc đến số phận 4 câu thơ: “Nếu anh biết được…/ chiều nay/ gió từ đâu thổi/ để gầy nhành mai/ Một đời/ gió có vì ai/ xô nghiêng chiều tím/ ra ngoài hoàng hôn” “lênh đênh” trong các tuyển tập văn chương để hơn hai chục năm sau nó đã có một chỉnh thể tác phẩm hoàn chỉnh, thì tôi đã nghĩ ngay rằng chị viết thơ theo thể lục bát như là duyên vậy. Bởi càng đọc càng nhận ra nét duyên thầm trong cả tập thơ. Nhẹ nhàng, sâu lắng, mà luyến lưu, dịu ngọt; đọc chị không thể nhầm lẫn với ai được bởi cái giọng rất nữ tính, rất mềm mại, trữ tình mà thầm kín, lắng sâu.

Từ em/ gọi nguyệt về trăng/ là khi tôi đã gọi rằm/ sang đêm/ Hoang sơ/ một lối cỏ mềm/ cháy lên em… thắm sáng miền nhân gian” (Cháy lên em…)

Tôi chưa nói về nội dung, mà về mặt hình thức thì tôi thực sự bị thu hút bởi cái nhịp điệu của nó. Nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ. “Nhịp là tiếng vang có ý nghĩa”; “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản của câu thơ” (Maiacôpxki); “Nhịp điệu không phải là vấn đề hình thức, mà là hình thức mang tính nội dung, bởi vì nhịp của bài thơ thể hiện cảm hứng, thể hiện cách cảm thụ cuộc sống của thi sĩ”([1]).

Khi lựa chọn sử dụng từ, nhịp trong thơ giúp cho con người trong giây lát thoát khỏi sự trôi chảy liên miên của thời gian, con người đánh dấu điểm đầu, điểm giữa và điểm cuối của sự tiếp tục bằng nhịp thơ. Quy luật của nhịp điệu: không ngắn quá để còn có thể nghe được, không dài quá vì còn phụ thuộc vào nhịp thở, chỗ ngắt để nghỉ khi thở. Đối với thơ nhịp của nó còn mang tính nhạc, nên phải có quy luật phối âm (bằng/ trắc), có quy luật lặp lại láy lại trong tâm tưởng để đem lại dư âm vang vọng và ngân vang trong tâm thức con người. Nhịp một bài thơ cũng như nhịp một bản nhạc, trên cơ sở nhịp cơ bản, cố định để tạo ra các biến thiên và các biến thiên đó mang lại tính đa dạng. Thông dụng nhất của nhịp trong câu thơ lục bát phần lớn là nhịp chẵn 2/2/2, khi có biến thiên thì sẽ có nhịp lẽ 3/3; 1/3; 3/5… Trong cuốn “Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”, GS. Phan Ngọc đã phân tích khá kỹ các loại nhịp biến thiên thể thơ lục bát nhằm diễn tả tâm trạng và dẫn dắt câu chuyện, tránh sự nhàm chán trong suốt 3.254 câu thơ của tác phẩm “Truyện Kiều”.

Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh

Với nhà thơ Đặng Nguyệt Anh, chị đã lựa chọn thi pháp nhịp điệu ngay từ khâu chế bản, nghĩa là đã định nhịp từ sáng tác và định hướng cho bạn đọc về nhịp trong thời điểm thơ ca có xu hướng chuyển dần sang thể loại tự do, tự do về câu chữ, tự do về cấu tứ, tự do về ngôn ngữ; thì chị chọn thể loại cố định về dòng, về chữ, về vần, nhưng đã biến thiên toàn bộ nhịp điệu trong cả 40 bài thơ của tập thơ. Đó cũng là lý do khiến tôi đọc một mạch, đọc xong rồi tự hỏi: Sao đây gọi là “Lục bát tôi”? Tỉnh táo hơn, tôi bắt đầu đếm chữ ở mỗi dòng, khẳng định lại đây là thể loại lục bát. Thì ra tôi đã đọc tập thơ bắt đầu từ thể loại, từ nhịp điệu, rồi mới tìm về tứ thơ, hình tượng thơ.

Đối tượng trữ tình là “em” thật dịu dàng, đằm thắm trong cái nhìn của nữ thi sĩ: “Tôi còn/ một chút hồng hoang/ thì xin em/ cứ địa đàng trăm năm/ tôi còn/ một chút xa xăm/ xin em/ đừng khép mình trong ngục tù…” (Tôi còn). Thú thật, khi đọc những dòng thơ này, tôi không nghĩ thi nhân là nữ; tôi nhận ra cái tôi trữ tình của thi nhân đã đi đến tận cùng của cảm xúc, và cảm xúc đó thật đẹp, thật bền vững; phút chốc quên đi cái nhộn nhạo, cái chốc lát, cái vội vàng của những cuộc tình trong chớp mắt, mà trở về với cái duyên tình bền vững trong truyền thống bao đời.

Giọng nữ tính, cảm xúc bạo liệt, vậy mà đọc lên vẫn tinh tế, đằm thắm biết bao: “Tỏa em/ cho hết sắc hương/ để tôi đi hết con đường/ lao đao!…/ Động đào/ khép – mở trăng sao/ xin cho tôi rẽ/ lối vào thiên thu” (Rẽ lối Thiên Thai). Tình yêu là vậy đó, giọng thơ nữ là vậy đó, xưa nữ sĩ Hồ Xuân Hương nói theo lối ỡm ờ, theo lối “đố tục giảng thanh”, theo lối nói quá… để bày tỏ cái khát khao trong hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ; thì nay với nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh cũng bày tỏ nỗi khát khao về hạnh phúc lứa đôi, nhưng không hẳn từ phía người phụ nữ, mà từ cả hai phía, rất phồn thực, mà không kém phần tinh tế. Thơ ghi lại những khoảnh khắc đỉnh cao và hạnh phúc nhất của tâm hồn là vậy. Tình yêu đẹp lên có lẽ cũng nhờ những rung động của thơ ca, nhà thơ đã nói hộ cho cảm xúc biết bao người.

Nhịp điệu đa dạng trong bài thơ “Chị em” như đã diễn tả nỗi khát khao của bao người phụ nữ cô quạnh: “Mảnh mai/ cong một trăng liềm/ bao đêm thao thức/ nằm nghiêng bên trời/ Đẹp/ mà cô quạnh/ trăng ơi/ mời trăng hãy xuống cõi người/ cùng ta/ Đêm qua/ trăng ghé sân nhà/ gặp nhau/ mới nhận ra là chị em”.

Tập thơ như hút người đọc suốt từ đầu đến cuối bởi cái giọng. “Biết rằng/ phía ấy không em/ bước chân lạc lối/ vẫn quen đi về…/Một lần/ trên bến sông kia/ người con gái ấy/ hẹn thề thiết tha/ Ngày thương mến ấy/ đã xa… chiều nay mưa gió… một ta/ một đò” (Phía không em…). Quạnh hiu. Xa vắng. Buồn mênh mông. Giọng thơ cuối bài như nấc, như nghẹn. Phép lặp từ, ngắt nhịp ở những câu thơ cuối chuyển tải cả một sự thất vọng vô bờ khi “ngày thương mến ấy/ đã xa...”.

Vần và nhịp là hai yếu tố song hành trong thơ. Nhịp trong thơ duy trì nhịp thời gian, nhịp của cảm xúc, nhịp của vũ trụ tuần hoàn… Sự đảo nhịp, đổi nhịp trong thơ thường kéo theo sự đổi thay của tiết tấu giọng điệu. Nếu nhịp điệu thong thả bằng phẳng kéo theo giọng điệu chậm rãi, lắng sâu, day dứt; nhịp diệu rắn chắc biểu hiện giọng dứt khoát, rõ ràng, chững chạc và ung dung; và nhịp điệu dồn dập, gấp khúc lại là biểu hiện của giọng điệu vướng vít, trăn trở, khổ đau… Nhịp gắt ở cuối bài thơ “Phía không em” thể hiện nỗi thất vọng tràn trề không giấu nỗi của một tình yêu đã mất.

Chùa Thiên Mụ đã trở thành điểm đến của bao du khách khi đến Huế, nên những câu thơ của chị về Huế nghe cứ thương thương nhớ nhớ “trời mưa Huế cứ vô tình/ để em khẽ nép vào anh/ đường về” (Chiều lên Thiên Mụ). Giọng thơ dẫu có nuối tiếc, vẫn ngọt ngào: “Có còn/ giữ ấm hơi nhau!/ ai mang gió bấc/ qua cầu Đò Quan?/ Tháng giêng/ sao quá vội vàng?/ sông Ninh bối rối/ ngỡ ngàng/ mùa/yêu…” (Vội vàng tháng Giêng). Nhịp câu thơ cuối như nốt trầm của bản nhạc, rơi xuống khoảng không rồi lặng sâu trong ký ức. Bởi với tháng Giêng miền Bắc khi có “gió riêu riêu, mưa lành lạnh” là lúc con người “mê luyến mùa xuân” không cưỡng được, vậy mà: “Tháng giêng/ sao quá vội vàng?”...

Khởi đầu là 4 câu thơ lục bát “Nếu anh biết được…/ chiều nay/ gió từ đâu thổi/ để gầy nhành mai/ Một đời/ gió có vì ai/ xô nghiêng chiều tím/ ra ngoài hoàng hôn” chu du hơn 20 năm với các tuyển tập “Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam”; “Tuyển tập thơ tình bốn phương”; “Người Việt Nam ở New York”… để rồi trở về với chỉnh thể tác phẩm “Nếu anh biết được”, và cả Thi phẩm “Lục bát tôi” đã định hình, định danh cho một phong cách thơ của Đặng Nguyệt Anh, nữ tính, dịu dàng, đằm thắm, mang nét duyên thầm của người con ở quê hương Nam Định – mảnh đất khoa bảng, mảnh đất có nhiều thi nhân nổi tiếng xưa nay.

([1]) Mai Quốc Liên, (4/1980), “Bình Ngô đại cáo”’ nhìn về phương diện văn bản và dịch thuật,