Nghĩ về một ‘đứa con’ bị ‘thất lạc’ của Nam Cao

359

Đó là truyện ngắn “Hai người ăn tết lạ”, được sáng tác trước 1945. Gần như nó chỉ được GS Hà Minh Đức tuyển một lần trong tập “Những cánh hoa tàn” do Nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1988. Ngoài ra, theo quan sát của chúng tôi, nó không có mặt trong bất cứ một tuyển tập nào của Nam Cao dù đây là nhà văn có tác phẩm được tái bản liên tục.

Theo tôi, đây là một thiệt thòi lớn với độc giả bởi Hai người ăn tết lạ là một truyện ngắn hay cả về nghệ thuật lẫn nội dung tư tưởng; mang đậm phong cách nghệ thuật của Nam Cao.


Nhà văn Nam Cao và các tác phẩm. 

Trước hết, xin tóm tắt khung tự sự của truyện ngắn này:

Đêm tối lắm, tối đến mức hắn không nhìn thấy bàn tay của hắn. Gió rít từng cơn, cây cối xã xượi. Bị gió buốt táp, hắn rụt đầu để che cái cổ, nghiến chặt hai hàm răng. Hắn thấy cái nghề của hắn khổ quá, hắn tức những kẻ ăn không hết lại không nhường cho hắn. Đi hết cánh đồng, hắn vào tới xóm. Có tiếng chó sủa. Đêm ba mươi tết, người ta thức dai lắm. Vào nhà ai đây? Chẳng lẽ lại về tay không? Tiếc công, hắn đi sâu vào xóm. Thế nào cũng phải đến lúc người ta ngủ, hắn nghĩ thế, thức càng khuya, ngủ càng say. Có khi hắn vớ bẫm không chừng.

Bỗng nhiên hắn nghe tiếng tù. Thì ra bọn tuần đinh. Hắn tìm chỗ nấp. Tiếng chân bọn tuần đi xa dần, hắn chui ra. Hắn đi. Gần đến giờ giao thừa. Vừa lúc đó hắn phát hiện một ngôi nhà không có lửa, cũng không có chó. Hắn tìm được chỗ giậu thủng, chui vào. Trong nhà còn có tiếng người, họ nằm trong ổ rơm, đắp chiếu, thò đầu ra nói chuyện. Tiếng đàn ông ồ ồ, tiếng đàn bà thỏ thẻ. Ra là chồng với vợ. Họ vừa nói, vừa nhai cái gì rau ráu, nghe vui tai. Và cái mùi cho hắn biết họ nhai ngô rang. Tưởng gì! Mà họ cười rúc rích.

– Tết nhà mình to quá!

– Hẳn đi chứ lị! Tết nhà cụ bá cũng không to thế.

– Thật! Họ chỉ có thịt, cá, bánh chưng, chè…

– Nhà mình không thèm ăn những thức ấy. Chúng mình ăn tết bằng ngô rang.

[…]

– Chẳng ai sướng bằng chúng ta.

Họ cười hi hí. Bỗng người vợ kêu lên, người chồng cười rồi rít lên: “Giời ơi! Sao chúng tôi sung sướng thế này?”. Người vợ mắng: “Hừ! Điên đấy à”. Một câu mắng nũng nịu. Tên trộm thần mặt ra. Hắn thấy hai vợ chồng này sướng.

***

Đến đây, chúng ta bắt đầu cảm nhận được cái tài của Nam Cao. Đời văn Nam Cao thường được các nhà nghiên cứu “vo” lại ở hai đề tài: trí thức tiểu tư sản và nông dân. Dù viết về đề tài nào, tác phẩm của Nam Cao luôn hướng về “tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than” (Trăng sáng). Cái khổ trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao thoát thai từ những nẻo nguyên nhân khác nhau, trong đó có cái đói. Tuy nhiên, cái làm nên văn tài của Nam Cao không phải là bản thân cái đói mà là quan niệm nghệ thuật của ông về cái đói. Theo một nhà nghiên cứu, nếu cái đói của Ngô Tất Tố nằm ở cái bụng (cái đói về mặt sinh học, giết chết con người) thì cái đói của Nam Cao nằm ở cái đầu, trái tim: cái đói giết chết nhân phẩm con người như từ xưa cha ông ta đã đúc kết: “Miếng ăn là miếng nhục”. Cái đói, với Nam Cao, là kẻ thủ ác truy đuổi con người vào ngõ cụt, không lối thoát về danh dự, nhân cách.

Với quan điểm đó, Nam Cao thường đặt nhân vật của ông vào những tình huống đa dạng của những cuộc truy đuổi. Và tiếng kêu nơi ông là tiếng kêu khẩn thiết: làm sao để con người không bị hỏng, làm sao giữ lấy được thiên lương của con người, hãy bảo vệ con người. Cũng vì thế, Nam Cao rất quan tâm đến môi trường sống. Nam Cao luôn đặt vấn đề: Đừng để con người sa chân vào những môi trường sống khủng khiếp, không bị vấy bùn, hoặc khi con người đã trót/ bị sa chân, làm thế nào kéo con người từ dưới vũng lầy lên bến bờ hoàn lương.

Trở lại với tên trộm trong truyện ngắn này. Vì sao hắn thấy hai vợ chồng ăn ngô rang sướng? Hắn nghĩ: “Ít ra họ cũng không khổ lắm”. Đúng vậy. Nhưng chỉ thế thì đâu phải là Nam Cao. Điều quan trọng là, như một khải huyền, hắn nghĩ: “Và giá hắn muốn, thì hắn cũng đã có thể như họ được. Một cái ổ rơm. Vài manh chiếu lành hoặc rách. Một mẻ ngô rang đựng trong cái rá. Đôi ba lời dịu ngọt. Và rất nhiều yêu thương”.

Những câu văn rất Nam Cao. Ngắn, nghe không mềm và ngọt nhưng tràn đầy triết luận và tình yêu thương con người. Thứ triết luận từ cõi nhân sinh lấm láp chứ không nói vống lấy được hay lý sự vặt kiểu tháp ngà. Tại sao tên trộm khổ? Đã đành hắn thiếu ăn. Đã đành hắn thiếu lương thiện. Nhưng hai vợ chồng ăn ngô rang thì khá khẩm gì? Tại sao đời của vợ chồng hắn không có những tiếng cười kia? Do hắn. Cũng do vợ hắn nữa. Ngòi bút của người trần thuật len lách vào trong suy nghĩ của trên trộm, trong cái đêm ba mươi khốn khổ khốn nạn của hắn: “Vợ hắn không cười với hắn. Hắn không cười với thị. Chúng ngồi ăn với nhau, mỗi cặp mắt nhìn một mảng đất, mỗi lòng nghĩ đến một ý nghĩ chua chát hoặc buồn rầu. Chẳng ai nói với ai, hay chỉ nói với nhau những lời gắt gỏng […] Hắn không âu yếm vợ”.

Chưa hết, hắn lại hay liếc con dao quèn quẹt vào miệng vại mà bảo vợ: “Ông giết mày! Ông giết mày!”.

Đó là lời trực tiếp của hắn. Còn đây là lời nửa trực tiếp – giọng điệu Nam Cao qua cảm xúc vừa hình thành trong tên ăn trộm: “Hắn chẳng giết ai, nhưng giết chết lòng yêu. Nhận được một lời thô tục, người đàn bà ném trả một lời thô tục”.

Vừa lúc hắn nghĩ được điều này thì hắn nghe tiếng người vợ trong ngôi nhà kia: “Tay này…tay ải…tay ai…?”, rồi tiếng người chồng kia đáp lại: “Tay này…tay ảnh…tay anh…!”. Tiếp đó là tiếng cười hí hí của người vợ.

Truyện ngắn là một khúc cưa đời sống. Đây là chỗ bất lợi của truyện ngắn so với tiểu thuyết. Làm sao với dung lượng “trong túi” mà nói được chuyện thế gian? Chưa kể phải nói một cách thú vị, thuyết phục, ám ảnh? Cái khó ló cái khôn. Các nhà truyện ngắn coi trọng việc dày công xây dựng tình huống truyện. Hiện nay, vẫn có nhiều cách hiểu về tình huống truyện. Tôi thì tán đồng quan niệm cho rằng tình huống truyện là cái tình thế đặc biệt có vai trò gây đột biến, tạo ra bước ngoặt, sự biến đổi bất ngờ trong cuộc đời, trong tâm trạng hoặc nhận thức của nhân vật.

Tiếng cười nói ỏn ẻn của người vợ ăn ngô rang đã đánh thức lương tính trong tên trộm. Đứng trong đêm tối rét ghê người, hắn “mỉm cười” và “thấy thèm hạnh phúc của đôi vợ chồng này quá”. Thế là hắn lê người đến gần chỗ họ, bốc trộm một nắm ngô rang. Một lát sau, hai vợ chồng kia ngủ, hắn bốc vội vàng mấy nắm ngô bỏ đầy hai túi. Cái rá hết nhẵn không còn một hột. Hắn rón vài hột, nhai công cốc. Hắn muốn nhai nữa nhưng cố nhịn? Vì sao nhỉ? Người kể chuyện cho hay: “Anh nghĩ đến vợ, đến cái ổ lá chuối và cái rá. Quên cả rét, anh chạy thật nhanh về nhà”.

Một con người được hồi sinh về nhân phẩm. Một gã đàn ông cộc cằn, thô bạo sẽ trở lại làm người chồng biết yêu thương và khát khao tổ ấm. Tư duy hình tượng nghệ thuật cho phép người đọc hiểu nhân vật người ăn trộm sẽ hoàn lương. Tuy nhiên, hình tượng nghệ thuật phải được đắp nặn, tạo hình và biểu hiện chứ không phải lời nói thẳng theo kiểu luận thuyết của đạo đức hay pháp luật. Ở ba dòng cuối của truyện, nhà văn dùng từ anh để thay cho từ hắn.

Trở lại với vấn đề tình huống truyện, nếu hắn vào một nhà giàu có lắm của và vớ bẫm thì sao? Đằng này hắn vào một nhà nghèo, gia chủ nằm tổ lá chuối và đón giao thừa bằng… ngô rang. Đó là Nam Cao. Đôi vợ chồng ăn ngô rang trong thương yêu gắn bó ngọt lịm. Trong truyện ngắn Nam Cao, không có chi tiết, tình tiết nào là nhỏ hay nói cách khác, chúng có thể khiêm tốn về dung lượng nhưng lớn lao về ý nghĩa, tạo ra một bước ngoặt của cốt truyện. Tôi muốn nói đến tình tiết này: Trước khi chạy ào về với vợ, với hai túi đầy ngô rang, hắn – lúc đó vẫn còn là hắn – “bỗng ngẩn người ra một chút”. Hắn nghĩ ngợi và đi đến quyết định: Bỏ lại vào cái rá đang hết nhẵn của hai vợ chồng kia một túi ngô rang. Đó là Nam Cao!

Vẻn vẹn 8 trang truyện khổ 13 x 19, Hai người ăn tết lạ là cả một “luận án” bằng hình tượng về sự vong thân và hoàn lương nơi con người, trên cõi người. Liệu hình phạt hay nhà tù có thể phục hồi nhân phẩm con người? Nếu bị bắt, nhân vật người ăn trộm trong thiên truyện này có trở nên lương thiện? Vậy mà “hắn” đã tìm thấy ánh sáng trong cái đêm ba mươi tối đến mịt mùng. Đó mới là Nam Cao.

Vì sao tác phẩm của Nam Cao không cần một cây phất trần nào dù thời gian vô tình cứ nghịch ngợm phủ bụi tung tóe lên những gì mà con người đã viết ra? Vì ông thực sự viết về con người. Con người là trung tâm tác phẩm của ông chứ con người không làm nền, không minh họa cho một hoàn cảnh nào, một lý luận nào. Nam Cao luôn đau đáu lo âu và tràn đầy niềm tin về con người trong cuộc hành trình làm người của con người, nhất là những người bị tha hóa đi tìm lại phẩm cách, thiên lương của mình. Ở góc độ này, Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn. Một văn tài. Cứ ngỡ Hai người ăn tết lạ mới được ông sáng tác cách đây vài ba hôm. Bởi vì hoàn cảnh lớn mà chúng ta đang sống khác với hoàn cảnh lớn thời Nam Cao sống và viết, nhưng hoàn cảnh nhỏ thì còn nhiều điều để trăn trở, thậm chí có mặt đi xuống đến ngưỡng dưới của chấn song đạo đức xã hội như dư luận xã hội đang lo ngại.

Theo Đặng Ngọc Hùng/Vanvn