Ngôn ngữ nghệ thuật trong tập “Dòng thiêng” của Nguyễn Linh Khiếu

1322

Lê Nam Linh


Tác giả Lê Nam Linh.

(Vanchuongphuongnam.vn) – “Dòng Thiêng” là tập thơ của Nguyễn Linh Khiếu do Nxb Hội nhà văn ấn hành năm 2019. Dưới góc độ ngôn ngữ, tập thơ này cho thấy, thơ Nguyễn Linh Khiếu là sự kết hợp giữa thơ tự do và thơ văn xuôi với đặc điểm ngôn ngữ giàu tính tạo hình, tự do phóng túng, đậm tính triết luận,.v.v. Nhận diện những đặc điểm này sẽ thấy rõ những đóng góp của ông về ngôn ngữ nghệ thuật đối với thơ ca đương đại Việt Nam.


Tập thơ “Dòng thiêng” của Nguyễn Linh Khiếu.

Thơ Nguyễn Linh Khiếu đi vào tâm thức con người bằng ngôn ngữ thơ tự do phóng túng, mạnh mẽ, sinh động. Cũng như các nhà thơ thời kì đổi mới, Nguyễn Linh Khiếu theo “khuynh hướng cách tân thơ, không lấy nghĩa làm trọng tâm như thời Thơ mới nữa mà lấy chữ làm cốt yếu, sáng tạo chữ, làm chữ phát nghĩa mới là đích đến của sáng tạo” (1). Nguyễn Linh Khiếu đã tạo ra những khoảng trống, những “độ không” của văn bản thơ đòi hỏi độc giả lấp đầy bằng “dùng hồn ta để hiểu hồn người” và tri thức, kinh nghiệm, phán đoán. Thơ Nguyễn Linh Khiếu thực ra là một cách nói sai ngữ pháp, bởi ông đã tước bỏ cách ngắt câu, tước bỏ các liên từ, quan hệ từ liên kết bộ phận câu, tạo ra những ngữ đoạn, những mệnh đề rời rạc không chỉ khác với lối nói quen thuộc đời thường mà còn khác hẳn với cách sử dụng ngôn ngữ của các nhà thơ đương thời. Sợi chỉ xanh kết nối con chữ tự do tuôn trào theo dòng chảy cảm xúc chính là cảm thức từ sâu thẳm vô thức được gọi về.

Chẳng hạn, khi xây dựng cổ mẫu gắn với tín ngưỡng phồn thực, ông thiết lập một trường từ vựng phồn sinh: mỡ màu, trù phú, phì nhiêu, nở nang, căng mẩy, cường tráng… các từ ám chỉ sự phồn thực này xuất hiện trong nhiều bài thơ nhưng không gây nhàm chán, đơn điệu mà gợi cảm nhận về sức sống căng tràn sinh sôi bất tận. Đúng là, “ngồn ngộn sức sống về các vùng đất, vùng người còn tươi rói những mùa sinh sôi và giàu năng lượng sống” (2). Ví dụ, từ “nở nang” với nghĩa gốc là “đầy đặn, phổng phao”, xuất hiện sống động trong 7 bài thơ mang nghĩa chuyển gợi hình ảnh sông Hồng và mảnh đất quê mỡ màu phì nhiêu là nguồn sinh dưỡng bất tận cho cỏ cây hoa lá (Hoa linh thảo, Lá non mùa Hà Nội), cho muôn loài (Trâu mộng sông Hồng, Nước trời), cho con người (Ban mai Diêm Điền, Hoa linh thảo) cho kết nối thương nguồn nhớ cội (Dòng Chao Phraya) và nối kết các nền văn hóa (Bình gốm India).

“đất làng ta nhuần nhuyễn mỡ màu trai gái nở nang vạm vỡ” (Hoa linh thảo)

“mỡ màu và nở nang như thể sông Hồng quê ta/ phù sa rực hồng muôn vàn thịt da thiếu nữ/ cuồn cuộn mải miết đi đâu” (Dòng Chao Phraya)

“tưng bừng hội hè đình đám/ tưng bừng lễ tang/ tưng bừng cầu cúng ca tụng thần linh/ tưng bừng gái trai nở nang vạm vỡ/ tưng bừng những đêm thiêng dồi dào chan chứa/ ta cất lên bài ca ban mai bài ca cội rễ thiêng liêng của tiên tổ mình”(Ban mai Diêm Điền)

“hiển hiện trong mơ trận thư hùng của những chàng trâu mộng/ đất đai mỡ màu cỏ mướt xanh ngút ngát bầy trâu cái động đực đen mướt nở nang / trận mạc nổ ra khi những nàng trâu cái ngước đôi mắt lẳng lơ ngắm bầu trời đỏ dục” (Trâu mộng sông Hồng)

“đi dọc triền đê ngát hương những bãi bồi rộn rã mùa hổn hển/ những nàng trâu cái nở nang những chàng trâu đực vạm vỡ tung tăng đùa dỡn hân hoan” (Nước trời)

“mang về từ New Delhi/ chiếc bình gốm hăng hăng cay cay say ngây ngất/ nõn nà lồng lộng thướt tha/ ngồn ngộn nở nang / bất khả luận bàn/ vun vút bay miền trời thổn thức” (Bình gốm India)

“những ngõ hẹp thăm thẳm gió lùa da thịt nở nang bóng dáng thời gian lên nước nâu già nhẵn bóng/ những phố nhỏ thân thương cây cùng người chan chứa nương tựa giao hòa tuần hoàn nguồn sống” (Lá non mùa Hà Nội)

Thêm một dẫn dụ, bài thơ Họa mi cao nguyên đá như bản hòa tấu hành khúc, cung trưởng là tiếng hót họa mi. Bản chất ngôn từ của thơ là giàu tính nhạc. Cảm thấu ngôn ngữ thơ phải cảm nhận được tính nhạc của thơ. Thơ có thể không có vần điệu nhưng nhất thiết phải có giai điệu, có nhạc tính. Nhạc tính vừa là thuộc tính vừa là yếu tính của thơ. Không có nó thơ như mất hồn phách, không có nó, thơ như lìa xa địa hạt thể loại để rồi bị các thể loại khác xâm thực mà biến mất. Tính nhạc của thơ Nguyễn Linh Khiếu được tạo bởi sự lựa chọn ngôn từ cẩn thận vì ngoài việc lưu tâm thể hiện ý tưởng, cảm xúc chân thành còn có mục đích tạo tính nhạc cho thơ, khiến bài thơ như bài ca. Ngoài nghệ thuật sắp đặt ngôn từ, ông còn chú ý thủ pháp âm thanh như vần điệu, nhịp điệu, lặp từ, lặp ngữ,… đặc biệt quan trọng trong việc tạo nhạc tính cho bài thơ như bản hoan ca, thánh ca. Đây là điểm khác biệt của thơ Nguyễn Linh Khiếu. Độ dài ngắn trong dòng thơ giúp phát triển nhịp điệu của bài thơ. Các dòng thơ ngắn khiến bài thơ có nhịp điệu nhanh. Các dòng thơ dài khiến tiết nhịp bài thơ lan truyền chậm rãi. Việc không sử dụng dấu câu ngắt dòng mà chỉ tạo ra khoảng trắng giữa các chữ, các dòng và khổ thơ được nhà thơ đặc biệt dụng tâm, nó cho thấy nhà thơ muốn nhấn mạnh vào xung năng vô thức của độc giả để gọi mời bạn đọc cùng sáng tạo. Nó góp phần tạo ra giao cảm từ hiệu quả biểu đạt của nhà thơ và việc thưởng thức của người đọc. Nhà thơ rất chú trọng hình thức sắp đặt, phân dòng, phân khổ, không sử dụng dấu câu, không viết hoa, mở đầu tất cả các câu/ dòng thơ đều viết chữ thường, dùng phép điệp lại liên tục các từ/ ngữ/ câu/ mô hình câu một cách công khai, chủ động, xuyên suốt toàn tác phẩm, như một cách làm có chủ ý tạo nhịp điệu, tạo không gian, giai điệu, tạo nghĩa.

“tiếng chim chuông vàng vang dội cao nguyên/ ngẩng lên ngăn ngắt trời xanh/ ngẩng lên tua tủa đá sắc/ thăm thẳm Nho Quế sợi chỉ bạc bảng lảng lênh láng mờ sương”

Tiếng hót theo nhịp điệu 2/2, 2/3, 2/4 nhanh, mạnh ở các câu thơ ngắn 4/5/6 chữ, như thức nhọn cao nguyên mênh mông sắc nhọn, chon von hoang vu, trập trùng hoang dã, thăm thẳm chợ tình. Tiếng hót theo nhịp điệu êm dịu trong những câu thơ xăn xuôi 101/ 91/51/34 chữ “họa mi hót một mình trên sương xanh đá xám trên lúa nương khoai sắn cải ngồng cúc vàng kiều mạch đại mạch đỗ đen đậu đỏ mận đào lê mắc coọc trên trâu bò lợn gà ngan ngỗng dê ngựa trên trăn rắn cáo cầy hươu nai hổ báo trên bếp lửa trống mõ trên rượu ngô thắng cố trên cung tên dao kiếm trên thổ cẩm vòng bạc kiềng vàng trên anh túc bồ đà tam thất thảo quả mắc khén hạt dổi mèn mén trên mắt thẳm lặng phắc tóc râu ria heo hắt thổn thức khèn mèo”.

Dòng âm thanh trong thơ Nguyễn Linh Khiếu đầy ngẫu hứng, bất ngờ, sinh động. Ông có hai cách chia cắt dòng âm thanh. Thứ nhất, ông dẫn dắt người đọc cảm thụ một cách trực tiếp qua nhịp điệu trùng với ngữ nghĩa, tức là ngắt nhịp, ngoài việc tạo tính nhạc còn có giá trị biểu đạt nội dung thơ. Ở trích đoạn trên, điệp từ “trên” bắt đầu cho một dòng âm thanh với chuỗi danh từ liệt kê sự phong phú bất tận sản vật mang sắc màu cao nguyên. Thứ hai, điểm đặc sắc nhất là thơ Nguyễn Linh Khiếu có cách ngắt nhịp không trùng ngữ nghĩa. Ta biết, nếu nhịp điệu không trùng với ngữ nghĩa, ngắt nhịp khác đi, ngữ nghĩa sẽ khác. Ông đã tạo tác những dòng thơ không có sự liên kết bằng liên từ “và”, “với”, “vì”, “thì”, “là”, “mà”, “nếu”, “tuy”, ”nhưng”… do đó, nhiều câu thơ của ông thật phi lô gích, phi kết cấu, thế nhưng lại tạo ra được những câu thơ mở rộng biên độ cả về ngữ nghĩa lẫn ngữ điệu, nó phụ thuộc vào thói quen hay cách cảm của người đọc, một câu thơ có đến vài ba cách ngắt nhịp: “những người chưa yêu sẽ yêu những người đang yêu tình yêu đang mất những người đã yêu tình yêu đã chết những người đã chết tình yêu bơ vơ/… hoạ mi hót tình yêu bến bờ trời/ hoạ mi hót tình yêu bến bờ đá/ hoạ mi hót tình yêu bến bờ sương/ hoạ mi hót tình yêu bến bờ người/… cổng trời cửa người vời vợi Đồng Văn đá ngổn ngang tua tủa cao nguyên”.

Bản hòa tấu ngẫu hứng của những con chữ đã thức nhọn đa chiều cảm xúc của độc giả về tiếng hót chim họa mi, khơi dậy khao khát về tình yêu và tự do. Do đó, tiếng hót họa mi thành hình tượng của tình yêu và tự do không chỉ của con người miền cao nguyên đá hoang vu này. Bài thơ đi đến câu cuối vẫn không đóng mạch thơ tạo ra kết cấu vòng và vĩ thanh là dư ba tiếng chim vẫn còn vọng vang nỗi niềm gì đó mà chúng ta khát khao muốn nghe được, thấy hết, nhận ra. “Đây có thể là một tìm tòi mới, khiến bài thơ đầy ắp sức sống liên tưởng của anh nối dài được dư âm thơ trong tâm tưởng người đọc tạo nên một dòng chảy nhịp điệu sống động” (3). Khi xem xét bài thơ Họa mi cao nguyên đá, có tác giả nhận xét: “Cấu trúc của bài thơ đã phá vỡ hoàn toàn những qui tắc đối xứng của các thể thơ truyền thống. Dù trong bài thơ vẫn có những đoạn thơ 5 chữ, 8 chữ nhưng ‘hình dáng’ của bài thơ đã tạo nên một kiểu thơ ‘độc’ và ‘lạ’: thơ xen văn xuôi, văn xuôi vẫn có dịp, nhịp dồn dập như hơi thở liền mạch bất tận nhưng người đọc vẫn thấy rõ những khúc đoạn nào là thơ, khúc đoạn nào là thơ – văn xuôi” (4).

Khi mới xuất hiện, thơ Nguyễn Linh Khiếu được xem là một hiện tượng lạ của thi đàn vào đầu những năm 90 của thế kỉ trước, bởi tư duy đột phá mới mẻ, góc nhìn khám phá lạ hóa ngôn ngữ thơ. Ở bài thơ Họa mi trên cao nguyên đá cũng như rất nhiều bài thơ khác, Nguyễn Linh Khiếu đã kết hợp thơ tự do và thơ văn xuôi. Ngôn ngữ thơ văn xuôi Nguyễn Linh Khiếu phong phú, đa dạng gắn liền với ngôn ngữ đời sống.

Điều này thể hiện rõ trong việc Nguyễn Linh Khiếu đã rẽ lối băng đường tạo nhánh riêng trong hệ hình từ hiện đại sang hậu hiện đại với triết luận phồn sinh, phồn thực, tạo được dấu ấn riêng từ quá trình đi tìm thế giới tự thân. Để có thể có được những thủ pháp nghệ thuật tương thích với khát vọng phồn sinh, Nguyễn Linh Khiếu đã sử dụng thơ văn xuôi. Ông đã xử lí nguyên liệu “thơ văn xuôi” là của chung mọi người, trở thành những “vân chữ”, “miền chữ” của riêng mình, không ngừng khơi gợi được những rung cảm thẩm mỹ ở người khác. Ở thơ văn xuôi, mặc dù hình thức trình bày như văn bản văn xuôi nhưng ông đã  cấu trúc ngôn ngữ thơ trở thành một mã nghệ thuật khơi gợi cảm thức huyền thoại. Nhà thơ đã tận dụng triệt để thế mạnh sáng tác khai thác mối tương quan tự do giữa các từ mà không cần câu nệ vào những qui ước: “vẫn tiếng chuông ngân nga tiếng mõ lỏng lẻo tiếng kinh chậm rãi trễ nải tiếng ê a hư ảo lảo đảo huyền hoặc trong hoàng hôn tím sẫm khói sương bảng lảng bóng người lãng đãng hồn vía quê nhà” (Hoàng hôn Việt Nam Phật quốc tự).

Nguyễn Linh Khiếu viết câu thơ với 41 con chữ cũ mòn, vậy mà người đọc vẫn thấy vô cùng thú vị vì câu thơ ngậm nhạc ngậm họa. Phải chăng, ông đã đặt nhầm chỗ từ lỏng lẻo? Bởi tiếng mõ là âm thanh, là vô hình, nó không phải vật thể có thể buộc chặt hay để dễ tuột dễ rời ra một cách lỏng lẻo. Về quan hệ lô gích, động từ tiếng mõ không thể đứng kế cận với tính từ lỏng lẻo. Tương tự, tiếng kinh không thể trễ nải, tiếng ê a cầu khấn không thể nào lảo đảo được. Thật lạ với những sự kết hợp từ chéo ngoe, trái khoáy, hoàn toàn phi lô gích. Song, không thể phủ nhận: cách kết hợp của câu thơ đã tạo được sự bất ngờ, thích thú. Người đọc có cảm giác tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng kinh dù không theo chuẩn mực nghiêm ngặt vẫn không “lệch nhịp, vỡ nốt, phô chênh” mà ngân vang, văng vẳng “hư ảo lảo đảo huyền hoặc” xuyên qua không gian thực tại Bodhgaya (Ấn Độ) nơi có cây bồ đề hùng vĩ thiêng liêng Đức Phật tu chứng quả để đưa hồn người về quê nhà. Một âm thanh vốn vô ảnh, vô hình chỉ với cách kết hợp “bất thường” này mà trở nên hữu hình, sống động. Không những thế, những từ ngữ dung dị đời thường “lỏng lẻo”, “ê a”, “trễ nải”, “lảo đảo” lấy trong lời ăn tiếng nói hàng ngày làm sống động hình ảnh thơ, tạo ra những câu thơ mộc mạc mang hồn cốt dân gian, kéo thơ ông gần gũi với cuộc đời. Đó còn là sự đóng góp cho ngôn ngữ thơ da dạng, phong phú.

Cụm từ “tiếng mõ lỏng lẻo” gợi ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, lấy hình khối liên tưởng âm thanh. Đó là biểu hiện của thơ siêu thực. Thơ Siêu thực hoán đổi các chủ thể tiếp nhận hoặc lược bỏ rất nhiều chủ thể để khiến bất kì sự tưởng tượng nào cũng có thể chấp nhận được, miễn là chủ thể tiếp nhận đó có thể rung động trước hình tượng. Cũng trong những từ lỏng lẻo, ê a cho ta cảm nhận trạng thái “buông bỏ” – một triết lý căn bản của Phật giáo là khuyên răn con người ta phải buông bỏ tham, sân, si. Từ đó, ta cũng thấy ngôn ngữ thơ Nguyễn Linh Khiếu hiện đại, cô đọng, giàu tính liên kết, tính tạo hình, tính luận đề, triết lý, nói như Roland Barthes trong Độ không của lối viết, “được cảm nhận như một dạng tối giản của lời nói”.

Thủ pháp nghệ thuật kết hợp từ một cách phi lý này được Nguyễn Linh Khiếu sử dụng khá phổ biến. Một bài thơ gần đây ông viết: “đã cuối năm rồi sương mềm thôn dã/ trung du thườn thượt những triền dồi/… tiếng mõ trâu lỏng lẻo tiếng mõ chùa” (Chiều Trung du) (4). Vẫn cách nói quen thuộc của ông, nhưng ta vẫn thấy “sương mềm thôn dã”, “thườn thượt những triền đồi”, và “tiếng mõ trâu lỏng lẻo tiếng mõ chùa” thật khó kết hợp, nó vô cùng khác lạ phi truyền thống. Sự thuyết phục của thơ ông chính là bởi thơ ông đã tạo ra những lớp tầng ngữ nghĩa mới và bằng một cách nào đó đã khơi gợi nơi bạn đọc những trải nghiệm cá nhân của họ, dẫn dắt họ đồng sáng tạo cùng nhà thơ.

Qua thơ ta thấy, một Nguyễn Linh Khiếu – làm thơ, viết báo, nghiên cứu triết học hiện ra với khuôn mặt mẫn tuệ và từng trải, nhưng lại hết sức giản dị, sinh động, gần gũi, chân thành. Ông đi nhiều, trải nghiệm và chiêm nghiệm cuộc sống ở nhiều nước khác nhau, chính những cuộc du ngoạn “văn hóa” tạo nên giao thoa ngôn ngữ. Con người triết đem đến cho thơ sự cô đọng, giàu tính liên kết, ẩn dụ. Con người báo chí thổi vào ngôn từ hơi thở cuộc sống sinh động đương đại. Con người thi ca làm thăng hoa ngôn từ, kiểu ngôn từ xuất hiện như dòng chảy vô thức dẫn dắt ngòi bút thâm nhập khám phá tận vùng sâu thẳm của tâm linh. Quy tụ những điều đó, nhà thơ phá vỡ sự chặt chẽ trong liên kết ngôn từ mở ra tính liên kết bằng các trường liên tưởng từ hình ảnh thơ.

Mỗi bài thơ của Nguyễn Linh Khiếu đều mang một thông điệp, một triết lí. Nhiều bài thơ ngắn chỉ 4 dòng nhưng đó lại như một bài kệ: Trận mưa, Hoa trắng, Sóng bạc, Cành mơ trắng… Cô đọng nhất là bài thơ Dưới chân Himalaya vỏn vẹn có 5 chữ: “đỉnh cao lạnh giữa trời”. Đây có thể gọi là bài thơ tối giản hiếm hoi trong thơ Nguyễn Linh Khiếu bởi phong cách thơ văn xuôi và tư duy trường ca thường lấn át tư duy thơ của ông. Đứng dưới chân núi Himalaya nhìn ngọn núi sừng sững khuất trong mây, cảm nhận những đỉnh cao bao giờ cũng chịu thân phận cô lẻ một mình trong mây tuyết. Ngọn núi cô lẻ ấy ẩn dụ những vĩ nhân bao giờ cũng lẻ loi một mình, rất ít người chia sẻ.

Xin dẫn bài thơ Hạt mưa để khảo cứu tính liên kết, tính tạo hình, tính luận đề, triết lý trong thơ Nguyễn Linh Khiếu: “là hạt mưa/ ta ở trên trời/ muôn đời trong suốt/ đầm đìa mát rượi những mùa hạn hán cánh đồng mẹ/ ta luôn trở về từ trời xanh/… mẹ sinh ta trong căn bếp mịt mù khói ngổn ngang rơm rạ/ ngày nhỏ ta lẽo đẽo bên bếp lửa xem mẹ nấu rượu/ chợt hiểu bí quyết mẹ đã làm ra ta/… ngút ngàn bay hơi từ nồi gạo nếp cái hoa vàng cánh đồng làng/ ngút ngàn bay lên hôi hổi ngất ngây căn bếp chật chội/ ngút ngàn bay lên trong suốt vần vũ/ một ngày đất đai hạn hán mẹ gọi ta về/… là hạt mưa/ bao giờ ta cũng sống ở trên trời/ bao giờ cũng trong suốt/ bao giờ cũng rười rượi/ bao giờ cũng đầm đìa những mùa hạn hán cánh đồng trần gian/ ta bay lên trời từ căn bếp mịt mù rơm rạ” (Hạt mưa).

Cảm thức ngợi ca nguồn cội đã sinh dưỡng những phẩm chất tốt đẹp của con người đã tạo tính liên kết cho bài thơ. Bài thơ giàu tính tạo hình bởi những hình ảnh thơ trở đi trở lại, hình ảnh cánh đồng (cánh đồng mẹ, cánh đồng làng, cánh đồng trầm gian) và hình ảnh căn bếp (mẹ sinh ta trong căn bếp mịt mù khói ngổn ngang rơm rạ, ngày nhỏ ta lẽo đẽo bên bếp lửa xem mẹ nấu rượu, ngút ngàn bay lên hôi hổi ngất ngây căn bếp chật chội, ta bay lên trời từ căn bếp mịt mù rơm rạ) gợi nhận thức và xúc cảm yêu quý, tự hào về gốc gác bình dị, thân thương của mình.

Thơ hay là sự hội tụ của chiều sâu cảm xúc nhuần nhuyễn với cái sắc sảo của trí tuệ. Thơ đến trong tâm trí người sáng tạo, không phải chỉ như cách thông thường là do cảm xúc, vô thức, mà có khi còn do một ý tưởng/ nhận thức/ quan niệm xuất hiện, chi phối. Trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, tính luận đề được ẩn trong sự tươi mát của cảm xúc và hình ảnh nó tạo nên những lớp nghĩa khác nhau. Chẳng hạn ở bài thơ Hạt mưa, lớp nghĩa dễ nhận thấy là sự suy nghiệm về hạt mưa bé nhỏ gắn liền với những phẩm tính đẹp đẽ (trong suốt, mát rười rượi), vĩnh cửu (muôn đời… bao giờ… cũng…), hữu ích cho đời (đầm đìa những mùa hạn hán trần gian) và bình dị, khiêm nhường (ta bay lên trời từ căn bếp mịt mù rơm rạ). Hạt mưa nhỏ bé, bình dị, trong suốt đã trở thành một hình ảnh ẩn dụ cho phẩm chất tốt đẹp của con người. Từ đó, Nguyễn Linh Khiếu nâng lên thành triết lí cuộc sống: Những con người nhỏ bé, bình dị, luôn thầm lặng cống hiến cho đời. Ở một lớp nghĩa khác, đó là, tác giả tự nhận mình là hạt mưa. Cậu bé quê do mẹ sinh ra nhưng lại hóa thân thành hơi nước (qua hình tượng chưng cất rượu thủ công) trong căn bếp nhỏ chật chội bay lên trời trở thành mây vần vũ trong vũ trụ. Rồi một ngày những cánh đồng dưới mặt đất hạn hán nghe tiếng mẹ gọi những đám mây trên trời biến thành những hạt mưa trở về đầm đìa đồng đất quê hương. Ở đây, nhà thơ đã thiết lập một mối quan hệ biến hóa con người biến thành hơi nước, hơi nước biến thành mây trời, mây trời lại biến thành cơn mưa đầm đìa đất đai thấm nhuần muôn loài trên mặt đất. Như vậy, với tác giả giữa con người và trời đất luôn luân chuyển lẫn nhau thành một nhất thể vũ trụ. Nói cách khác, trong cảm quan tác giả trời đất và con người hòa đồng, thống nhất với nhau làm một. Ta thấy, bài thơ được thể hiện bằng một hình thức thơ hiện đại (rất Tây) nhưng cảm thức của tác giả lại phát lộ tâm thức phương Đông thâm trầm và tổng phổ.

Cũng như nhiều bài thơ khác, bài Hạt mưa sử dụng nhiều động từ mạnh, nhiều tính từ liên tiếp kề cạnh nhau thể hiện hình tượng, cảm xúc và thái độ: trong suốt, đầm đìa, mát rượi, hạn hán, mịt mù khói, ngổn ngang rơm rạ, lẽo đẽo, chợt hiểu, làm ra, ngút ngàn bay hơi, ngút ngàn bay lên, hôi hổi ngất ngây, chật chội, vần vũ, gọi, về, rười rượi, đầm đìa,… Đó là cách thức bộc bạch dòng cảm xúc thác lũ đang tuôn chảy trong giấc mơ vô thức sáng tạo của nhà thơ.

Trong giấc mơ vô thức sáng tạo ấy, ông tạo tác nhiều từ mới để gọi tên những sự vật, hiện tượng: linh thảo, lam hạnh, linh hương, hoa hạnh, khởi trinh…: “hoa linh thảo nhân từ vẫn rực rỡ nơi này mùa màng vẫn thong dong thuỷ triều vẫn dạt dào phù sa tôm cá” (Hoa linh thảo), “dầu giãi nắng mưa dịu dàng e ấp một linh hương” (Hoa hạnh), “lam hạnh nở tưng bừng dọc quân cảng tinh khôi” (Mưa rơi dọc Cam Ranh)…

Ngôn ngữ thơ Nguyễn Linh Khiếu ra đời từ sự bộc phát, thăng hoa của những đam mê, những ẩn ức mà trong đời sống vì một lẽ gì đó buộc phải che khuất, chôn chặt. Vần thơ vụt lên trong dòng ý thức không đi theo một trật tự duy lí nào mà đi theo dòng tuôn trào tâm thức. Đó là lúc, cái vô thức điều khiển hành động sáng tạo. Nói như Freud, sáng tạo của nhà thơ chính là giấc mơ tỉnh thức. Trong giấc mơ tỉnh thức ấy, ông đã biến ngôn ngữ thực hành hằng thường thành ngôn ngữ thơ sinh động, đầy biến hóa để phản chiếu thế giới tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu suy tư, giàu ước vọng của mình và từ phương trời của một người mà thành phương trời của nhiều người.

***

Thơ Nguyễn Linh Khiếu mang dấu ấn cá nhân khác biệt, độc đáo về hình thức và ngôn ngữ. Thơ ông là sự kết hợp đặc trưng giữa thơ tự do và thơ văn xuôi, là sự kết hợp tham chiếu giữa tư tưởng phương Tây và tư tưởng phương Đông. Sự kết hợp này đã tạo nên văn bản thơ đặc thù với ngôn ngữ thơ tự do phóng túng, mạnh mẽ, sinh động, nhiều sức gợi, liên văn bản, đa tầng nghĩa. Tương hợp với tư tưởng phồn sinh tươi tắn thấm nhuần trong những câu thơ, chữ nghĩa thơ Nguyễn Linh Khiếu tươi tắn, mới mẻ, phi lý, lạ lùng, thăng hoa.

Về mặt ngôn ngữ, thơ Nguyễn Linh Khiếu là thơ phi truyền thống. Văn bản thơ ông bất định, định dạng mở, phi cấu trúc. Đặc biệt, từ bỏ đặc quyền của thơ là viết hoa chữ đầu câu, thơ ông chối từ dấu câu, tước bỏ hầu như các liên từ, các kết nối ngữ pháp đã thành qui phạm. Nó tạo ra những văn bản thơ khác nhau, những kết hợp chữ khác nhau và những câu thơ khác nhau nơi bạn đọc. Thơ Nguyễn Linh Khiếu mặc dù là thơ văn xuôi phong phú, đa dạng gắn liền với ngôn ngữ đời sống, nhưng ngôn ngữ thơ ông hết sức cô đọng, hiện đại, đa liên kết, giầu tính tạo hình, giầu nhạc điệu…

L.N.L