Người thầy truyền lửa VĂN ĐỨC

804

Trầm Hương

Nhà văn Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng, quê xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nho học. Ông tham gia Mặt trận Việt Minh huyện Thăng Bình, từ tháng 3-1945, học ban tú tài phần II. Năm 1955, ông tham gia đấu tranh đòi hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng Bình rồi nhà lao Hội An.

Vũ Hạnh là cán bộ văn hoá Khu uỷ Sài Gòn – Gia Định, hoạt động công khai ở nội thành Sài Gòn (hoạt động đơn tuyến). Trong hoàn cảnh viết trên sách báo công khai dưới chế độ ở miền Nam, ông đã có cách viết khéo léo để vẫn đưa được những thông điệp tiến bộ đến quần chúng mà không bị kẻ thù đàn áp.

Sau năm 1975, ông làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, ủy viên ban chấp hành Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.”

Tác phẩm:

Các tập truyện: Vượt thác (1963), Mùa xuân trên đỉnh non cao (1964), Chất ngọc (1964), Ngôi trường đi xuống (1966), Bút máu (1971), Con chó hào hùng (1974), Cô gái Xà Niêng (1974), Ăn Tết với một người điên (1985), Sông nước mênh mông (1995); Tuyển tập Vũ Hạnh (2 tập, 2015.)..;

Tiểu thuyết: Lửa rừng (1972), Người nhà trời (2020)

Hồi ký: Cái tết khó quên (1990), Một chặng đường bút mực (2000)

Tiểu luận: Người Việt cao quý (1965), Đọc lại Truyện Kiều (1966), Tìm hiểu văn nghệ (1970),…

Ông được trao tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học – Nghệ thuật năm 2007.

Do tuổi cao sức yếu, nhà văn Vũ Hạnh đã qua đời vào lúc 6 giờ ngày 15/8/2021 do tai biến, hưởng thọ 96 tuổi, khép lại một đời văn – chiến sĩ, một biểu tượng đẹp của tinh thần văn hóa dân tộc

Nhà văn Vũ Hạnh (15/07/1926 – 15/8/2021)
Bút máu và văn đức
Tôi nhớ thời là một học sinh ở một trường cấp ba nơi miền cuối đất xa xôi, không biết do một sự tình cờ nào đó, tôi được đọc Bút máu. Tôi đọc say sưa, như nuốt từng câu, từng chữ. Quyển sách khiến tôi bị ám ảnh mãnh liệt về một Lương Sinh giỏi chữ nhưng sai đường, phản bội lại chính mình trong cách sử dụng chữ nghĩa. Anh ta sợ gươm bén và mùi máu tanh nồng từ bỏ võ thuật, chọn văn chương để lập thân. Nhưng Lương Sinh nào ngờ ngòi bút còn tàn độc hơn cả gươm đao, hủy diệt bao mạng sống con người khi dung sai chỗ, Những gì phía sau quyển sách thật lớn lao. Tôi khao khát được gặp nhà văn Vũ Hạnh biết bao. Nhưng lúc ấy, một nhà văn viết nên được một tác phẩm tầm cỡ Bút máu đối với tôi, một cô học trò ở một ngôi trường cấp ba tồi tàn, xiêu vẹo quả thật xa vời. Năm tháng trôi. Dòng đời xô tôi đi. Tôi trở thành một nhà văn, sống và làm việc ở Thành phố Hồ Chí Minh. Thì đây, tôi đã được gặp nhà văn Vũ Hạnh. Ông hiện ra trước mắt tôi, thật phong độ, nho nhã, lịch sự, hào hoa mà gần gũi. Được trò chuyện với ông, tôi thấy cuộc đời này thật phong phú, thật đáng yêu, đáng sống vì có những con người là tinh hoa của đất trời đang tồn tại, tỏa ra quanh ta một thứ ánh sáng minh triết mà ấm áp, an lành. Kiến văn rộng rãi của ông nhắc chúng tôi cần phải đọc, phải học, phải cọ xát, dấn thân mới mong có được những trải nghiệm máu thịt cho những trang viết. Mà thật vậy, biết mười viết một thấy ngòi bút trơn tru; biết một viết một thấy ngòi bút đã ngắc ngứ; biệt một viết hai, chắc chắn ngòi bút phải ma mị, lấy kỷ xão khuất lấp sự yếu kém, rỗng tuếch của mình!
Lần được gặp ông đầu tiên, tôi nói những cảm nhận về Bút máu. Còn ông tâm đắc nói về văn chương Á Nam Trần Tuấn Khải. Ông cho văn chương là một thứ đạo. Văn chương không có non sông chẳng có hồn. Và ông đã sống như ông nói và viết. Năm lần ngồi tù để trả giá cho cái đạo chữ nghĩa quả là tấm huân chương cao quý nhất dành cho một nhà văn dấn thân. Hẳn chúng ta biết bối cảnh ra đời Bút máu khi Sài Gòn lúc ấy tràn ngập văn hóa phẩm độc hại, những tiểu thuyết yêu vội sống cuồng, những mơ mộng thoát ly khỏi thực tế xiềng gông, tù ngục, bom đạn, máu lửa, lầm than. Một Sài Gòn phồn vinh nhưng ẩn chứa bao thứ bất an, ngổn ngang những phận đời tối sáng. Một xã hội như thế cần biết bao nhà văn bút sắt lòng trong, dùng văn chương chữ nghĩa để cảm hóa, khai sáng, hiệu triệu, đấu tranh cho một xã hội tươi đẹp, công bằng, nhân ái. Nhưng nhiều nhà văn đã dùng ngòi bút của mình trục lợi cho danh lợi, tiền tài. Mỗi chữ trong Bút máu là những lưỡi dao sắc bén vạch trần tội ác của những bồi bút, dùng văn chương chữ nghĩa đầu độc, làm băng hoại tâm hồn bao thế hệ. Không cần giấu diếm, ông cho đó là tội ác. Ông bà ta nói “Lời nói đọi máu”, huống chi sự phù phép, biến hóa huyền ảo của chữ nghĩa.

Nhà thơ Hữu Thỉnh và nhà văn Vũ Hạnh chụp ảnh lưu niệm trong buổi toạn đàm ra mắt Tuyển tập Vũ Hạnh tại Tp Hồ Chí Minh, 2015

Thấm thoát mà tôi đã cùng là hội viên với nhà văn Vũ Hạnh, trong ngôi nhà Hội Nhà Văn Việt Nam suốt mấy mươi năm. Mấy mươi năm đó, tôi vẫn được đọc thêm nhiều quyển sách của ông; nhiều bài báo ông viết về những con người, sự kiện đặc biệt; được gặp ông trong những Đại hội Nhà văn, những cuộc họp mặt báo chí… Ông đi và viết vẫn rất khỏe. Ông viết nhiều thể loại. Thật đáng trân quý khi một nhà văn lớn như ông lại viết cả những bài báo nói về kinh nghiệm súc ruột để thanh lọc cơ thể, một phương pháp giúp con người trẻ lâu, khỏe mạnh, thanh tân mà ông đã trải nghiệm và muốn được chia sẻ với nhiều người. Phải chăng khi ngòi bút dùng để đóng góp cho hạnh phúc con người, nhà văn chẳng nề hà, rất nhiệt tâm. Sự dụng bút ấy của ông là một nhân cách lớn cho những người thế hệ sau suy ngẫm và học hỏi. Ông đi nhiều và xê dịch không mệt mỏi. Tôi nhớ Đại hội nhà văn năm 2010, ông chưa chịu về ngay mà đi xe lửa lên Sapa để có thực tế viết về một câu chuyện ông đang ấp ủ. Năm 2015, ông là nhà văn cao tuổi nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh ung dung dự đại hội. Một nhà văn tuổi 90 mà vẫn còn tráng kiện, còn sức để viết, còn sức đi quả là một hiện tượng đáng quý và hiếm có.

Những ngày hôm nay, gặp ông, tôi vẫn nói về sự ngưỡng mộ của mình qua Bút máu. Văn chương là đạo và nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng khái tuyên ngôn: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Tôi chân thành nói với nhà văn Vũ Hạnh về cảm nhận Bút máu năm xưa và hôm nay. Ông không giấu được nỗi buồn, sự day dứt, trăn trở trước một xã hội còn quá nhiều những nghịch lý, ngổn ngang. Thì đây, sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin, thời đại kỹ thuật số, thế giới phẳng đi nhiều. Những sản phẩm văn hóa độc hại mở mạng ra là thấy, lan truyền chóng mặt. Không cần phải tìm kiếm xa xôi, giấu diếm trong cặp sách học sinh thời xưa; phim ảnh khiêu dâm, truyện ngôn tình ngày nay hiện ngay trên bàn học những đứa trẻ đang lớn, hiện ngay trong lòng bàn tay, khi con em chúng ta cầm đến chiếc điện thoại thông minh. Có bao nhiêu điều khủng khiếp đã truyền đi trên các trang mạng xã hội… Bạo lực, nghịch lý học đường, môi trường bị ô nhiễm, thức ăn nhiễm độc vì lòng tham con người, khoảng cách quá lớn giữa giàu nghèo, sự vô cảm phổ biến của đám đông và lòng trắc ẩn hiếm hoi, những trận chiến giằng xé khốc liệt trong mỗi con người và lợi ích nhóm, sự xuống cấp đạo đức, tội phạm ngày càng trẻ và tàn bạo… Ôi, có quá nhiều điều ngổn ngang, không thể đổ lỗi cho kẻ thù xâm lược, ngoại bang nữa mà vang lên thống thiết lời cảnh báo phải hành động, phải thay đổi hành vi để cứu lấy mình, cứu lấy những thế hệ con cháu… Những nhà văn nằm ở đâu?! Tôi hiểu hàng ngàn nhà văn khi cầm lấy ngòi bút đều trăn trở, day dứt trước trách nhiệm lớn lao này.
Lưỡi gươm tuy ác nhưng trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây ra điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể xiết là bao, nhưng chẳng qua là mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi… Xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô nhân đạo? Tội ác văn chương xưa nay, nếu đem phân tích, biết dâu chẳng dồn chất thành ngàn dây thiên sơn…“. Những năm đất nước chiến tranh, sống trong lòng chế độ Sài Gòn; nhà văn Vũ Hạnh đã có dũng khí vượt qua danh lợi, xích xiềng, tù ngục kêu gọi những nhà văn phải có đạo đức trong ngòi bút của mình. Còn hôm nay, đọc lại Bút máu, tôi hiểu trái tim của một nhà văn tuổi 90 như ông vẫn rừng rực ngọn lửa nhiệt tình, vẫn muốn qua Bút máu truyền dẫn đến các thế hệ sau về sứ mạng lớn lao của văn chương và sức nặng của ngòi bút. Trong nghề Y có Y đức, có lời thề của Hippocrates cho những bác sĩ trước khi ra trường. Nghề viết văn cũng cần lắm Văn đức. Nhưng “Văn đức” ấy cũng rất mơ hồ, có  lằn ranh thật mong manh trong những tác phẩm “bỏ quên con người”, “mờ mịt hư ảo”… Văn đức rất quan trọng  nhưng chưa bao giờ được các nhà văn đưa tay thề trong buổi lễ kết nạp hội viên (Mà muốn được tuyên thệ cũng chẳng có điều kiện thể hiện). Văn đức đôi khi bị bỏ quên, bị mỉa mai và rẻ rúng trước “sự thành công” về sức lan truyền mãnh liệt của những văn hóa phẩm độc hại.
Nhà văn Vũ Hạnh và ông Nguyễn Hữu Dư tại Tọa đàm Khoa học “Đời Văn chiến sĩ” 
Thật cảm động, khi trong Tọa đàm Khoa học “Đời Văn chiến sĩ” Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật kết hợp với Hội Nhà văn TP.HCM tổ chức sáng ngày 5/10/2015; ông Nguyễn Hữu Dư (bìa phải), hiện ngụ tại nhà 46 tổ 7 đường Nam Hòa, Phường Phước Long cũng có mặt. Ông lặng lẽ ngồi ở hàng ghế sau cùng. Cuối buổi tọa đàm, nhà văn Vũ Hạnh mới bật lên một bí mật: “Năm 1955, nếu không có anh Nguyễn Hữu Dư làm ở cơ quan an ninh của chính quyền Diệm báo tin địch sắp thủ tiêu “Nguyễn Đức Dũng” thì tôi không còn sống đến hôm nay để nhận được những tình cảm tốt đẹp của tất cả mọi người. Anh Dư đã tìm đến nhà báo tin. Nhờ vậy, tôi trốn thoát khỏi sự khủng bố của địch. Từ ấy cho đến nay, chúng tôi có một tình cảm tri kỷ, sâu nặng. Đó là ân nhân của tôi. Hành động của anh Dư là nghĩa khí của người Sài Gòn. Không có những tấm lòng như anh Dư, cách mạng chắc chắn bị nhiều tổn thất. Chúng tôi tồn tại trong lòng địch nhờ sự cưu mang, che chở của đồng bào như thế”. Nhà văn Vũ Hạnh đã trao bó hoa tươi đẹp nhất nhất cho ông Nguyễn Hữu Dư…
Người thầy truyền lửa
Cám ơn cuộc đời gần trọn một thế kỷ của nhà văn Vũ Hạnh đã cho tôi trải nghiệm để suy ngẫm khi đọc lại Bút máu để nghĩ về “Văn đức”. Quyển sách kỷ niệm 40 năm thành lập Hội Nhà văn tôi được giao nhiệm vụ biên tập phần tiểu sử của ông giờ đây đang được chuyển sang màu tím tiếc thương một văn tài… Ôi, có biết bao kỷ niệm ấm nồng về ông. Tôi nhớ ngày mới về Sài Gòn, trước một cô gái còn rất trẻ, ôm mộng lập nghiệp bằng văn chương, ông có cái nhìn thấu cảm và khích lệ. Ông luôn nhẹ nhàng, lịch sự – nếp văn hoá của một “Người Việt cao quý” khi tiếp cận với một bạn văn nhỏ tuổi. Hồi đầu, tôi gọi ông là anh, sau là “Thầy”. Cao lớn lồng lồng là vậy nhưng ông sẵn lòng tiếp lửa, động viên cho người trẻ, không quãng đi mấy cấy số bằng xe máy đến tận nhà riêng của tôi nhận hai tập bản thảo nặng trịch dày hơn ngàn trang, đọc kỹ và cặm cụi viết lời giới thiệu cho quyển sách. Tôi đã trao đúng người đọc tri kỷ để có được mấy dòng súc tích về tác phẩm: “Trong cơn lốc xoáy” là tiểu thuyết được viết nên từ câu chuyện thật về cuộc đời của một phụ nữ có số phận đặc biệt. Dường như số phận đã sắp đặt để bà sống trong lòng cả Việt Minh, Pháp và Mỹ. Trong hình hài bé nhỏ, với những vết thương sâu trong lòng, bà nói “số phận đưa đẩy tôi làm người giơ tay hứng nước mắt từ hai phía”. Bà đã trải qua bao biến cố trong cuộc sống, đã từng trôi nổi khắp bốn phương, ngoài 80 tuổi vẫn còn băn khoăn không biết mình là người của quốc gia nào, ngước mặt nhìn trời, cất tiếng kêu lên thống thiết: “Tôi có quê mà không có Tổ quốc”. Từ Mỹ, bà đã về Việt Nam, tìm đến nhà văn Trầm Hương để trải lòng. Gần 10 năm ròng rã, nhà văn Trầm Hương đã ngập lặn trong cái bể khơi ngồn ngộn tư liệu, chịu đựng nhịp đập quá tải của con tim mình, trước bi kịch mà người phụ nữ trong câu chuyện này đã nếm trải. Sự gặp gỡ giữa hai người phụ nữ sống cách nhau gần bốn thập kỷ đã làm nên định mệnh diệu kỳ. Đó là sự ra đời tiểu thuyết “Trong cơn  lốc xoáy”. Số phận kỳ diệu mà không ngẫu nhiên, bởi tim óc và máu thịt người viết đã trộn lẫn vào nhân vật. Nhà văn Trầm Hương đã viết bằng sự thấu cảm trước bi kịch và sự thống khổ của số phận con người trong cơn lốc xoáy của thời cuộc…”.
Ông đã một lần lau nước mắt cho tôi khi vô tình khơi gợi, chạm đến một miền riêng tư của một người phụ nữ có cuộc đời tình ái không suông sẽ, phúc tạp và đa đoan như tôi. Hôm ấy, ông thật sự lúng túng khi tôi bật khóc nức nở, không kềm chế được cảm xúc thương cho thân phận phụ nữ, thương cho tình yêu của mình. Ông vụng về đưa chiếc khăn mui-soa cho tôi, nhẹ nhàng an ủi: “Tôi xin lỗi cô vì tôi thật sụ không biết, đã làm cho cô buồn. Thôi, cô cứ khóc đi. Khóc được sẽ nhẹ lòng, sau đó sẽ bình yên và mạnh mẽ hơn”. Vâng, tôi đã bình yên và mạnh mẽ hơn khi chấp nhận thực tế, dám buông bỏ và bao dung để yêu thương… Cám ơn sự có mặt của một “Người Việt cao quý” trên cuộc đời này, để thế hệ cầm bút chúng tôi có được người thầy trong văn nghiệp. Tôi học ở ông sự khiêm cung, như bông lúa càng chín, càng trĩu hạt càng cúi mình. Tôi học ở ông trách nhiệm công dân trước ngòi bút. Nhiều lần gặp tôi, ông vẫn không ngừng trăn trở “Thế hệ tôi đã làm xong phần việc của mình là chiến đấu cho độc lập tự do. Những người kế tiếp phải gánh lấy trách nhiệm mài sắc ngòi bút để tiếp tục chiến đấu ngổn ngang thời bình, mà cuộc chiến này cũng không kém phần khốc liệt”. Ông là vậy đó, Văn chương là đạo. Văn chương phải chứa non sông. Nhà văn phải sống như những gì mình viết. Ông ra đi nhưng để lại ngọn lửa ấm truyền dẫn ngòi bút trên trang viết người ở lại.
Tác giả chụp hình lưu niệm cùng nhà văn Vũ Hạnh năm 2014, trong một Hội thảo về đạo đức xã hội năm 2014
T.H/Theo Văn Nghệ