Ngô Đức Hành
(Vanchuongphuongnam.vn) – Nguyễn Anh Tuấn là nhà thơ hiếm hoi, trên nhiều phương diện. Tác giả là người làm thơ tự do. Anh không thuộc hội nào, dù rằng, người Việt Nam (chính qui ?) thì cứ hẵng phải vào hội nọ, hội kia thì mới “chính danh”. Nhưng, theo quan điểm của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và nhà thơ Vương Cường thì, ai có thi phẩm xứng đáng, các anh đều gọi là nhà thơ. Và, theo cách nhìn đó thì, Nguyễn Anh Tuấn là nhà thơ tự do.
Bìa tập thơ Phúng dụ từ những đám mây
Nguyễn Anh Tuấn là người đúng nghĩa: Thơ với anh là nghề. Anh không thuộc biên chế ăn lương cơ quan nào và, làm thơ với Tuấn là “tay phải”, chứ không “tay trái” như số đông hiện nay.
“Phúng dụ từ những đám mây”, NXB Hội Nhà văn 2020, tập thơ mới của Nguyễn Anh Tuấn gồm 96 bài thơ, được anh “ép” vào trong 100 trang sách (nhiều trang 2 bài, sách không có tờ gác). Tất cả 96 bài đều ” phúng dụ…”. Chỉ riêng điều này cho thấy, Nguyễn Anh Tuấn là nhà thơ duy nhất về phúng dụ.
Chắc ai cũng hiểu, theo Từ điển tiếng Việt, phúng dụ như sự diễn đạt tư tưởng, khái niệm trừu tượng bằng ngụ ý thông qua những hình ảnh cụ thể (một phương thức tu từ). Khái niệm phúng dụ (chữ Hy Lạp là allègoria) đã xuất hiện từ thời cổ đại. Nguyên tắc phúng dụ được dùng phổ biến trong mỹ học và nghệ thuật trung đại châu Âu. Đến đầu thời Phục Hưng, phúng dụ mất vai trò phổ quát trong tư duy nghệ thuật nhưng, đến thế kỷ 16 lại được chú ý, được xem như hình thức diễn tả các giá trị tinh thần cao. Phúng dụ (hay nói bóng hoặc ám chỉ), là một biện pháp chuyển nghĩa trong nghệ thuật ngôn từ; một kiểu hình tượng, một nguyên tắc tư duy và tổ chức trong nghệ thuật nói chung.
Theo nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân, ngay trong ca dao, hò vè xưa, cha ông ta đã dùng cách nói ám chỉ, đó là mức sơ khai của phúng dụ. Ví dụ: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao ” diễn tả một triết lý về sự đoàn kết. Có thể coi phúng dụ là dạng thức ẩn dụ nhưng với quy mô lớn hơn, không chỉ ở cấp độ câu, đoạn mà còn bao quát toàn bộ tác phẩm. Phúng dụ dựa trên cơ sở lối nói ngụ ý, bóng gió, biểu đạt một ý tưởng trừu tượng, khái quát bằng hình ảnh trực quan.
Lịch sử văn học Việt Nam nói chung, các nhà văn, nhà thơ, không ít thì nhiều, trong các tác phẩm của họ, đều đã ít nhiều sử dụng hình thức ngôn ngữ phúng dụ, trong nhiều thể loại như: Thơ, truyện ngụ ngôn, văn trào phúng, những sáng tác nghịch dị hoặc không tưởng.
Với Nguyễn Anh Tuấn, nhà thơ tự do, phải nói là những trường hợp hiếm hoi. Thơ với anh là nghề, thực sự đã đẩy phúng dụ lên một mức mới trong tổ chức nghệ thuật ngôn từ của tác phẩm. Anh khẳng định điều này ngay ở tên từng bài thơ, đều có chữ “phúng dụ …”; nó có thể đứng trước, ví dụ “Phúng dụ trăng” hoặc sau, ví dụ “Ly café phúng dụ”.
Nguyễn Anh Tuấn sử dụng thể thơ tự do hậu hiện đại là chủ yếu. Tuy vậy, cũng có bài theo thể lục bát truyền thống, ví dụ : “Long lanh tiếng sáo màu trăng/ Tròn đêm tố nữ náu vầng ca dao” (Phúng dụ tiếng sáo); Hoặc linh hoạt câu 7/câu 8, ví dụ : “Tôi chỉ có, duy nhất, một mẹ/ sinh và trao vinh dự làm người/ như thấu cảm công ơn này vô giá/ cánh hoa sen đã rước mẹ về trời” (Phúng dụ mẹ).
“Phúng dụ từ những đám mây” đa đề tài, tất nhiên, phần lớn thế sự đã được thoát lên bằng nghệ thuật ngôn ngữ với nền tảng thi pháp học. Dù là anh viết về Hà Nội hay tầng trời, viết về nụ hôn hay Di lặc. Kể cả có những tên bài thơ cập nhật những vấn đề rất cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với “ Phúng dụ người 4.0 ”.
Hà Nội
Phồn hoa lắm
Người đi
Bóng dẫm bóng
Mỗi nét văn trống đồng luôn kể rõ thiên cơ
(Hà Nội)
Trong thế giới được sáng tạo bởi God
Từ tầng trệt tới tầng cao
Tất cả các tầng đều rất tinh khiết
….
Trong thế giới mà, God chưa hoàn thành
Biếc tận các tầng lời
Con người mãi mãi buốt một sự khác biệt
(Phúng dụ các tầng trời)
Theo GS. Trần Đình Sử, đặc điểm chung của thi pháp học cấu trúc là dựa vào mô hình ngôn ngữ. Đó không chỉ vì ngôn ngữ là cơ sở của khoa học nhân văn và khoa học xã hội, mà còn vì họ nhận thấy, mọi nhận thức không tách rời với sự ràng buộc của ngôn ngữ. Sự nhấn mạnh tính hệ thống đòi hỏi xem văn bản là một hệ thống hoàn chỉnh, coi trọng phân tích hình thức là yếu tố có ý nghĩa then chốt. M. L. Gasparov nói: “Thi pháp học cấu trúc không phải là thi pháp của các yếu tố tách rời, mà là thi pháp về các quan hệ của các yếu tố tạo nên tác phẩm”. Điều này dễ thấy qua “Phúng dụ từ những đám mây”.
“Phúng dụ từ những đám mây” của Nguyễn Anh Tuấn có những bài thơ trữ tình đẹp đến mức long lanh, tinh khết trong mỗi “thần thức ” (chữ của Nguyễn Anh Tuấn):
Mặt đất một ngày rêu
Xanh những giấc mơ huyền thoại
Rối vào nhau hạnh phúc gồm khổ đau
…
Mặt đất một ngày tinh cầu số
Ngày đó, phép thiêng ngôn ngữ mở
Câu chuyện loài người được mở những đám mây
(Phúng dụ từ những đám mây)
Đọc “Phúng dụ từ những đám mây” của Nguyễn Anh Tuấn dễ nhận thấy, những nhìn nhận, đánh giá, chân xác từng giá trị của lịch sử, những cật vấn thân phận con người, về con đường riêng chung … Bằng “trái tim ngôn ngữ phúng dụ”( Nv ), Nguyễn Anh Tuấn tạo đậm một dấu ấn của Tượng trưng và Siêu thực. Nó nằm ở những mặt cắt, của những mảnh không gian đan xen, tiếp nối, chồng lấn … ngay trong tác phẩm đầu tay của anh ta.
Có một điều thú vị, bài thơ cuối cùng (thứ tự 96) là bài “Phúng dụ người mẫu”, như chăng, một sự sắp đặt có chủ ý của tác giả và, ý nghĩa như một “thông điệp phúng dụ “:
Sự can dự của dao kéo
nàng rực rỡ như bông hoa đầy ắp mật ong
Này, chàng Passion
đừng sờ mó, đừng hôn
Hàng đẹp dễ tưởng tượng
nếu ăn nàng sẽ đắng hơn lá ngón!
Nguyễn Anh Tuấn tốt nghiệp cử nhân sư phạm, ngành Ngữ văn tại Trường Đại Học Sư Phạm Vinh (1997) và, học Lớp bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du khoá 7/2013. Đây là lợi thế, do vậy thi pháp của Nguyễn Anh Tuấn khá vững, khác biệt. Đã có lúc tôi hỏi: “ Chú cứ viết thơ thế này thì ai hiểu được, sao có bạn đọc ? ”. Tuấn cười rách trời rơi xuống: “Với em, làm thơ là để dâng hiến. Thơ chỉ cần có một người đọc là cũng … đã nhiều ”./.
Hà nội, tháng 3/2020
N.Đ.H