Nguyễn Đức Mậu & Chất truyện trong thơ

746

24.11.2017-09:20

 Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu

 

Chất truyện trong thơ

 

NGUYỄN ĐỨC MẬU

 

NVTPHCM- Có một lần, ngồi trò chuyện với một nhà văn, tôi dẫn dụ về chất truyện trong thơ. Trong thơ có nhạc, có họa, đã đành, trong thơ còn có truyện, có kể, có tả nữa. Tất nhiên, đã đưa truyện vào thơ mà không sa vào sự rườm rà, kể lể mà vẫn giữ được chất thơ thì phải cao tay lắm. Còn ở những người non tay nghề, trường ca dễ biến thành diễn ca, và thơ có truyện dễ biến thành vè, thành văn vần, thành ra những mớ những câu rối rắm, lẫn lộn.

 

Trước hết, xin dẫn chứng bài thơ Nhà ga của cố thi sĩ Nguyễn Bính:

 

Cất lên theo kiểu nhà sàn

Chung quanh quấn quýt đôi giàn ti gôn

Tường vàng mái đỏ màu son

Nhà ga lại chứa linh hồn nhà ga

Loanh quanh vẫn cụ xếp già

Thủy chung bốn chuyến tàu qua một ngày

Có ông ký trẻ về đây

Vợ con chưa có suốt ngày ngâm thơ

Cụ xếp có cô gái tơ

Xuân xanh đã chín mà chưa lấy chồng

Cụ xếp vẫn sống ung dung

Để lau kính trắng ngồi trông bốn trời

Xin rằng hoa cứ việc rơi

Xin rằng tàu cứ ngược xuôi đúng giờ

Để cho ông ký ngâm thơ

Cụ lau kính trắng, cô mơ chồng hiền

Lạy trời năm tháng bình yên

Cụ xếp vẫn cứ ở nguyên ga này

Tàu qua bốn chuyến mỗi ngày

Sân ga vẫn cứ rụng đầy hoa tươi

Thục nữ chưa kén được người

Ông ký quân tử vẫn ngồi ngâm thơ…

 

Ga Kép năm 1940

 

Bài thơ kể về một nhà ga xép buồn tẻ ở Bắc Giang thời Pháp thuộc. Mở đầu của bài thơ là ba câu tả chân bình thường: “Cất lên theo kiểu nhà sàn. Chung quanh quấn quýt đôi giàn ti gôn. Tường vàng mái đỏ màu son”, nhưng đến câu thứ tư người đọc bắt đầu thấy được bút pháp thơ tài hoa rất Nguyễn Bính: “Nhà ga lại chứa linh hồn nhà ga”. Tiếp theo tác giả khắc họa về các nhân vật sống ở nhà ga bé nhỏ của miền rừng. Một cụ xếp già. Một ông ký trẻ. Một cô gái tơ chưa chồng. Ba nhân vật ấy đáng ra phải gắn bó thành một gia đình nhỏ, nhưng thật lạ, họ sống rất khác biệt, đơn lẻ. Ông ký trẻ không mảy may để ý đến cô gái. Và cô gái, mặc dù xuân xanh đã chín cô vẫn cứ vẩn vơ mơ mộng về người chồng hiền ở nơi nào xa lắm, xa lắm. Và ông xếp, mặc cho con gái mình chưa chồng ông vẫn vô lo nghĩ, ung dung sống theo cách của mình. Hình ảnh: “Cụ xếp vẫn sống ung dung, để lau kính trắng ngồi trông bốn trời”, Nguyễn Bính khắc họa nhân vật thật rõ nét, độc đáo. Nếu viết thành văn, ắt phải tốn rất nhiều trang, nhiều chữ. ở đoạn kết bài thơ, tác giả nhắc về cái điều thường gặp, cái sự trì trệ đến buồn chán ở một nhà ga xép. Một nhà văn bình phẩm rất ngắn gọn về bài Nhà ga: Đây là một truyện ngắn được viết bằng thơ. Tôi thấy rất đúng.

 

Nhà thơ Nguyễn Bính có rất nhiều bài thơ có chất truyện. Bài thơ Phơi áo, gồm bốn câu thơ rất gần với ca dao. Nhìn ở góc độ khác, bài thơ có nhân vật, có tố chất của một truyện ngắn cô đọng, súc tích:

 

Xóm Tây bà lão lưng còng

Có hai cô gái lấy chồng cả hai

Gió thu thở ngắn than dài

Bà mang áo rét phơi ngoài giậu thưa.

 

Bài thơ rất gợi, kể về một bà lão sống lẻ loi cô độc. Hai cô gái đã đi lấy chồng, bà thì tuổi già, hẳn ngôi nhà kia và cả chiều thu cũng buồn bã, cô độc như bà. Bài thơ có một khoảng không gian rộng cho người đọc tưởng tượng. Câu thơ “Gió thu thở ngắn than dài” chứa chất tâm trạng buồn thương hiu hắt và hình ảnh: “Bà mang áo rét phơi ngoài giậu thưa” cứ khắc mãi vào trong tâm trí người đọc. Nhân vật bà lão trong bài thơ của Nguyễn Bính, có nỗi cô đơn thường thấy ở một kiếp người. Đây phải chăng là một “siêu truyện ngắn mi ni”, dẫu không có những xung đột, mâu thuẫn, được viết bằng vỏn vẹn có 28 chữ. Trong bàn cờ 28 quân chữ đó, những nước đi bằng trắc, vần điệu hòa nhập với nội dung, hiện thực xen với cảm xúc… tất cả diễn ra một cách tự nhiên, không hề mang dấu vết của sự bài trí khiên cưỡng…

 

Nhắc về chất truyện trong thơ, ngoài Nguyễn Bính, tôi lại nhớ đến bài thơ bốn câu của cố thi sĩ Trần Lê Văn:

 

Tìm gì?

 

Vợ gửi tuổi xuân trên núi

Con gửi trí khôn lên trời1

Bạn gửi tiếng cười trong đất2

Tôi tìm gì nhỉ, quanh tôi.

 

Bài thơ trên, giàu chất tự sự giãi bày, đặc biệt có hai chú thích nhằm cho bạn đọc hiểu thêm về người con, người bạn của tác giả. Nhà thơ Trần Lê Văn nói về cảnh ngộ của riêng mình bằng lời thơ chân thật, cảm động. Các nhà thơ khác cũng hay nói về mình nhưng có bài thuyết phục người đọc, có bài lại gây ra sự phản cảm bởi sự khoa trương tô vẽ hoặc tự đề cao mình. Trần Lê Văn có vợ là người Thái ở Sơn La, hồi trẻ “tuổi xuân gửi núi” cho đến ngày hòa bình, hai vợ chồng ông mới về sống ở Hà Nội. Trần Lê Văn có năm người con, hai cô con gái làm ở khoa mắt, khoa nhi. Còn ba người con trai, một người làm ở ngành luật, một người hy sinh ở chiến trường, một người con mắc bệnh lâu dài. Trần Lê Văn có bạn thơ Quang Dũng nổi tiếng với bài Đôi mắt người Sơn Tây, Tây Tiến… Nhắc tới Quang Dũng, người đọc hẳn nhớ những câu thơ đầy ma lực “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm. Heo hút cồn mây súng ngửi trời” hoặc: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc. Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng”. Quang Dũng, nhà thơ xứ Đoài, bạn thân thiết nhất của nhà thơ Trần Lê Văn đã mất để lại cho Trần Lê Văn một khoảng trống, một nỗi buồn. Trần Lê Văn đã viết về bạn mình: “Nắng mưa không thể gỉ mòn. Tình bạn bền như sự thật”. Từ hoàn cảnh riêng, Trần Lê Văn nghĩ về việc đời, sự đời, đúc kết những buồn vui cho mình. Bài thơ có bốn câu, mỗi câu một nhân vật, cảnh ngộ. Câu thứ nhất tác giả nói về vợ, câu thứ hai nói về con, câu thứ ba nói về bạn, câu thứ tư nói về chính tác giả. Bài thơ Tìm gì? của cố thi sĩ Trần Lê Văn được viết năm 1992. Tôi đoán tác giả viết rất nhanh. Bởi những câu thơ, những nỗi buồn đã được tích tụ, đã có sẵn trong suy nghĩ, trong tâm can tác giả. Chẳng riêng gì tôi mà các nhà thơ như Vân Long, Hữu Thỉnh, Trúc Thông, Trần Đăng Khoa… cũng rất tâm đắc khi đọc bài thơ này. Trần Lê Văn có nhiều bài, nhiều câu thơ hay, ông sống thanh cao, tâm huyết với nghề, chí cốt với bạn bè. Trước khi đưa in bài thơ Tìm gì? tôi có gọi điện cho nhà thơ Trần Lê Văn, hỏi thăm ông về gia đình, về sức khỏe ông trong thời gian chữa bệnh. Đôi khi nhắc đến những bài thơ hay, tôi thường mang bốn câu thơ của Trần Lê Văn ra để dẫn chứng, ngâm ngợi. Tôi nhớ đến gia đình và cảnh ngộ rất đặc biệt của nhà thơ Trần Lê Văn, nhớ đến ngôi nhà nhỏ của ông ở phố Hàm Long… Quả thật từ bốn câu thơ trên, nếu như viết văn, nếu khai thác tận cùng số phận nhân vật, tôi sẽ viết được một truyện ngắn thậm chí một truyện vừa, một tiểu thuyết.

 

TIN LIÊN QUAN:

 

>> Thơ khao khát khoảng không gian mở

>> Thương kiếp ngựa một thời máu đổ

>> Thơ của một nhà thơ đã khuất

>> Cánh rừng nhiều đom đóm bay

>> Quả chuông nằm yên lặng trên đồi

>> Khi tâm hồn như hoa phượng cháy trong mưa

>> Người viết những câu thơ trận mạc

 

 

>> XEM TIẾP NGHIÊN CỨU – LÝ LUẬN PHÊ BÌNH CỦA TÁC GIẢ KHÁC…