Nguyễn Nhược Pháp mộng mị theo em đi chùa Hương

620

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là một bậc tài hoa đoản mệnh. Lúc sinh thời, ông có hai tác phẩm được xuất bản là tập thơ “Ngày xưa” và tập kịch “Người học vẽ”.

Năm 2018, kỷ niệm 80 năm ngày mất nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, Nhà xuất bản Phụ Nữ đã sưu tầm toàn bộ tác phẩm của ông để in thành tập “Hoa một mùa”, bao gồm 3 truyện ngắn, 6 vở kịch, 10 bài thơ và 10 bài phê bình.

Nhiều người đã biết, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp là con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882 -1936). Học giả Nguyễn Văn Vĩnh từng làm chủ bút Đông Dương tạp chí, nhưng từ cuối thập niên 20 của thế kỷ 20 thì kinh tế sa sút dần.

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp là con của người vợ nhỏ Phan Thị Lựu. Khi Nguyễn Nhược Pháp mới được 2 tuổi, thì bà Phan Thị Lựu qua đời. Người vợ lớn của học giả Nguyễn Văn Vĩnh đã đưa Nguyễn Nhược Pháp về nhà sống chung với những anh em cùng cha khác mẹ như Nguyễn Hải, Nguyễn Giang, Nguyễn Thị Loan, Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Dương, Nguyễn Văn Phổ, Nguyễn Kỳ, Nguyễn Thị Mười, Nguyễn Dực…

Sau khi có bằng Tú Tài, Nguyễn Nhược Pháp vào trường Luật, học chung khóa với thi sĩ Phạm Huy Thông – tác giả bài thơ “Tiếng địch sông Ô”. Ngoài giờ học, Nguyễn Nhược Pháp cộng tác với các tờ báo như Hà Nội báo, Đông Dương tạp chí, Ngày Nay, Tinh Hoa… Mỗi ngày, đến giảng đường hoặc đến tòa soạn, Nguyễn Nhược Pháp đều tìm cớ đi ngang ngôi nhà 37 Hàng Đẫy vì ở đó có mỹ nhân Đỗ Thị Bính.

Nhỏ hơn Nguyễn Nhược Pháp một tuổi, Đỗ Thị Bính là con gái của nhà tư sản Đỗ Lợi, một nhân vật làm nghề thầu khoán giàu có nhất Hà Nội đầu thế kỷ 20. Nức tiếng xinh đẹp, Đỗ Thị Bính mà mọi người quen gọi cô Bính – Hàng Đẫy, cùng với cô Phượng – Hàng Ngang, cô Síu – Cột Cờ và cô Nga – Hàng Gai được xưng tụng là “tứ đại mỹ nhân” Hà Thành lúc bấy giờ.

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp mặc cảm gia cảnh nghèo khó chưa bao giờ dám ngỏ lời công khai với tiểu thư khuê các Đỗ Thị Bính, nhưng mối tình của họ được nhiều người nhận ra.

Trong tác phẩm “Văn thi sĩ Tiền Chiến”, nhà thơ Nguyễn Vỹ với tư cách người cùng thời, đã hé lộ: “Nguyễn Nhược Pháp chuyên môn đi xe đạp, và chỉ có mình anh trong giới văn sĩ là đi xe đạp mà thôi. Chiếc xe đạp của anh cũng là một loại xe độc đáo: không có chuông, dây xích cứ tuột ra ngoài, mỗi lần anh đạp là nó kêu cụt kịt, cụt kịt như một con lợn sắt. Nguyễn Nhược Pháp có cái miệng hơi móm, chiếc xe đạp của anh cũng móm… Nguyễn Nhược Pháp đeo đuổi một cô nàng mà anh chỉ say mê vì một chiếc áo đen và đôi mắt đen như hai hạt huyền. Vì nàng mà anh đã viết những bài thơ tuyệt diệu”.

Khi tương tư mỹ nhân Đỗ Thị Bính, bối cảnh sống của Nguyễn Nhược Pháp cũng được chính ông tự thú: “Thường khách tài hoa mê nàng Đẹp/ Thay cơm bằng hai xu phở bò/ Có khi óc đầy nhưng bụng lép/ Thu chăn đành ngủ dài cho no”. Thế nhưng, mỗi ngày nấn ná trước cánh cổng của ngôi nhà 37 Hàng Đẫy, cảm hứng vẫn dạt dào trong lòng Nguyễn Nhược Pháp khi được chiêm ngưỡng người đẹp: “Cúi đầu nàng tha thướt/ Yêu kiều như mây qua/ Mắt xanh nhìn man mác/ Mỉm cười vê cành hoa”.

Đặc biệt, bài thơ “Chùa Hương” dù ghi chú “Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa”, nhưng hình bóng “em tuy mới mười lăm” phảng phất dáng vẻ mỹ nhân Đỗ Thị Bính: “Hôm nay đi Chùa Hương/ Hoa cỏ mờ hơi sương/ Cùng thầy me em dậy/ Em vấn đầu soi gương/ Khăn nhỏ, đuôi gà cao/ Em đeo dải yếm đào/ Quần lĩnh, áo the mới/ Tay cầm nón quai thao”.

Tuy nói mông lung, nhưng Nguyễn Nhược Pháp cũng để bản thân xuất hiện trong không gian “Chùa Hương” khá lãng mạn: “Mơ xa lại nghĩ gần/ Đời mấy kẻ tri âm/ Thuyền nan vừa lẹ bước/ Em thấy một văn nhân/ Người đâu thanh lạ thường/ Tướng mạo trông phi thường/ Lưng cao dài, trán rộng/ Hỏi ai nhìn không thương…/ Dòng sông nước đục lờ/ Ngâm nga chàng đọc thơ/ Thầy khen: “Hay! Hay quá!”/ Em nghe rồi ngẩn ngơ”.

Bài thơ “Chùa Hương” được phổ nhạc và quen thuộc với công chúng khắp nơi. Đầu tiên, bài thơ “Chùa Hương” được nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ nhạc thành ca khúc “Đi chơi chùa Hương” vào cuối thập niên 1950. Sau năm 1975, bài thơ “Chùa Hương” được nhạc sĩ Trung Đức phổ nhạc thành ca khúc “Em đi chùa Hương”.

Mối tình với mỹ nhân Đỗ Thị Bính được Nguyễn Nhược Pháp không chỉ gửi gắm trong bốn câu kết “Ngun ngút khói hương vàng/ Say trong giấc mơ màng/ Em cầu xin Giời Phật/ Sao cho em lấy chàng”, mà còn thể hiện ở đoạn vĩ thanh “Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện”.

Đáng tiếc, đoạn kết ấy chỉ có trong sương khói tưởng tượng mà thôi!

Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh – Hoài Chân nhận xét về nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp: “Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp… Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoảng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới quý: với Nguyễn Nhược Pháp, nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến… Một điều lạ là những câu tình tứ ghép vào bên cạnh những câu đến buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó!”.

Trong những câu thơ vừa trữ tình vừa hài hước của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, có bao nhiêu niềm riêng dành cho mỹ nhân Đỗ Thị Bính? Không thể kết luận chính xác, nhưng độc giả nhiều thế hệ sau phải tri ân người đẹp đã mang đến cảm hứng để nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp miêu tả ân cần “Tóc xanh viền má hây hây đỏ/ Miệng nàng bé thắm như san hô/ Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ/ Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ”.

Và người đẹp thường mặc chiếc áo đen có đôi mắt đen như hai hạt huyền, cũng mang đến niềm tương tư xao xuyến cho nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp “Ta lặng nhìn hơi lâu/ Nhưng thì giờ đi mau…/ Nàng chợt nghiêng thân ngà/ Thoáng bóng người xa xa…/ Ta mơ chưa lại hồn/ Nàng lẹ gót lầu son/ Vừa toan nhìn nét phượng/ Giấy thẹn bay thu tròn…”

Ngày 19/11/1938, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp trút hơi thở cuối cùng, để lại một nỗi u hoài “Đi vui rồi vẩn vơ/ Hay đâu thức còn mơ/ Lạc vào trong vườn mộng/ Mồm vẫn còn ngâm thơ!”.

Mỹ nhân Đỗ Thị Bính về sau kết hôn với kỹ sư Bùi Tường Viên và có cuộc sống rất êm ấm. Mỹ nhân Đỗ Thị Bính theo gia đình đi kháng chiến, rồi từ sau năm 1954, công tác tại phòng giáo dục quận Hai Bà Trưng- Hà Nội.

Mỹ nhân Đỗ Thị Bính qua đời năm 1992, hưởng thọ 77 tuổi. Nguyên mẫu cô gái đi lễ chùa Hương được chính con gái của mỹ nhân Đỗ Thị Bính là bà Bùi Thị Mai thổ lộ: “Mẹ tôi dáng cao, da trắng hồng. Bà thường mặc đồ đen như một sở thích và cũng bởi trang phục màu đen tôn lên làn da trắng của bà, khiến bà vừa bí ẩn vừa cuốn hút. Có lẽ, đó cũng là lý do để người đời gọi bà là “người đàn bà áo đen”. Theo những gì tôi được mẹ kể, ngày mẹ lên xe hoa, mẹ cũng chưa có tình cảm với bố tôi. Trước đó họ cũng chưa từng gặp mặt lần nào. Khi về ở cùng, bà mới bắt đầu dành nhiều tình cảm cho chồng. Bởi lẽ, tính cách và con người của bố tôi đã khiến trái tim bà rung động…

Mẹ luôn nghĩ tất cả mọi người đều tốt, xã hội không có ai là người xấu cả. Mẹ yêu thương tất cả mọi người và cả những loài động vật. Đến tận khi mẹ tôi đã ngoài 70, sở thích đọc tiểu thuyết của bà vẫn không thay đổi. Bà thường ra hiệu sách mượn về đọc đến quên ăn quên ngủ. Mẹ tôi cả đời thích mặc áo màu đen. Khi mẹ mất, tôi mặc cho bà một áo cánh màu vàng mỡ gà trong cùng, bên ngoài là áo dài bằng vải lụa đen, ngoài cùng khoác cho mẹ một áo dạ màu đen tuyền, theo đúng như di nguyện của mẹ”.

Chương trình radio trên báo Nông Nghiệp Việt Nam