Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp – Rơi vào bẫy của tạo hóa

2661

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nhiều khi mình dại đột, mình kiêu ngạo, rồi cứ tin là mình hay, thực ra mình dở lắm. Mình vừa dốt, lại còn kiêu ngạo, hiếu thắng, rồi đủ trò cả. Mình cứ tưởng mình là tinh vi, không ăn thua đâu. Văn chương nó không cần sự tinh vi. Nó cần sự tinh tế. Nó cần sự trong trẻo. Nó cần sự vô tâm…

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp 

Hôm ấy tôi đang họp thì nhận được nhắn tin của họa sĩ Nguyễn Phan Bách: Mười một giờ cháu mời chú qua nhà cháu uống rượu tất niên và ngắm tranh. Con đường đến nhà Bách nhỏ hẹp, gồ ghề, xấu vào loại nhất Thủ Đô, đang lúc trưa nên đông đặc người. Đã thế trời lại mưa. Rồi từ ngõ đi vào tới số nhà ngách lại dài hun hút.

Vào đến sân, khi tôi đang loay hoay tìm chỗ dựng xe thì một người đàn ông nhỏ nhắn, chậm chạp, gương mặt tươi cười, hiền lành có thoáng chút hớt hải. Ông mặc một chiếc áo gió cũ và bên trong là một chiếc áo phông màu hồng. Tôi nhận ra đó là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Bách giới thiệu: Bố ạ, đây là chú Khiếu, con mời chú đến ạ. Ông Thiệp tươi tắn, niềm nở. Ông bảo tôi sân rộng xe để đâu cũng được. Rồi ông dẫn tôi vào căn phòng tầng một của ngôi nhà cũ. Một căn phòng cũ kỹ hết sức đơn sơ, có đặt một ban gia tiên. Ông không bật điện rồi bảo tôi ngồi bên một bàn nước tròn, thô mộc bên cửa số. Bàn đó chỉ có hai chiếc ghế cũ. Một ấm trà với vài chiếc chén màu nâu đất. Ông nhẩn nha pha trà và bắt đầu nói chuyện.

Ông bảo: Bây giờ làng tôi nhốn nháo quá rồi, xưa thì vườn tược, cây cối quanh năm tươi tốt thích lắm. Đất này vốn nhiều đầm hồ nên nhiều cá tôm và nhất là chim cò thì nhiều vô kể. Xóm tôi gọi là xóm cò vì là nơi cò trú ngụ. Người với cò ở lẫn với nhau thanh bình lắm. Ngày xưa chả ai bắt cò đâu ông ạ. Biết nhà tôi ở bên Nhân Chính, ông bảo cách nhau con sông Tô mà bên đó là đất quan, còn bên làng Khương tôi là đất dân làm ruộng. Anh nói rành rẽ về các vùng đất quê mình. Anh nói dân Khương chăm chỉ, hiền lành, thuần phác. Làng anh nổi tiếng có nghề gia truyền làm dưa muối, cà muối và chả nhái. Bữa ăn nhà nào cũng có dưa cà, đám cưới phải có món dân dã ấy mới thành cỗ.

Anh bảo dù đất làng mình không phải đất học, đất quan nhưng đây cũng là đất cổ của Hà Nội nên nhiều di tích lịch sử văn hóa. Anh kể đầu năm anh thường đi dọc bờ sông Tô để xuống thắp hương nơi từ đường thờ cụ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, đền thờ cụ Chu Văn An. Năm nào ngày xuân anh cứ nhẩn nha đi bộ một mình như thế.

Tôi hỏi: Cái tên Khương Hạ này gần Ngã Tư Sở nghĩa là sao. Ông có vẻ ngẫm ngợi và nói, làng anh có một xóm Chàm. Cái cổng cổ của xóm hiện còn và ghi rõ: “Xóm đức long Chàm”. Nghe nói đó là tù binh người Chăm được đưa về từ thời Lê Thánh Tông. Không phải chỉ có quan binh, mà cả giới quý tộc Chăm, có thế mới được đưa ra đây. Họ sống ở đây lâu rồi cũng lấy chồng lấy vợ các xóm bên hòa huyết bây giờ cũng chả còn phân biệt được Chăm, Việt nữa. Ông, quanh Hà Nội có nhiều nơi tên ”sở” vốn là trại giam người tù binh Chăm. Dẫu đã Việt hóa rồi, nhưng nhìn kỹ vẫn thấy dáng người, nét mặt, màu da có khác. Tiếng nói thì cứ lơ lớ mất dấu. Cái nghề dưa muối, chả nhái ông ngờ rằng có gốc rễ từ Chăm. Vì chỉ làng Khương các món này mới là đặc sắc nhất.

Rồi ông đận đà kể, sau khi tốt nghiệp Khoa Sử, trường sư phạm năm 1970 ông được điều lên công tác miền núi. Vì cái lý lịch mà ông không được đi bộ đội và cũng không được ở lại quê hương. Lên đó ông dạy học ở trường bổ túc văn hóa. Ông là cậu trai Thủ đô mới hai mươi và dạy toàn người miền núi cao tuổi hơn mình. Học viên là cán bộ đi học. Họ từng trải và đều có danh phận. Mười năm ở trên đó anh học được nhiều lắm. Những người miền núi ai cũng thật thà chất phác tử tế. Ông học thêm được cái ấy. Cái tử tế, cái thật thà, cái hiền lành. Cái ấy nó quý. Ở thành thị cái ấy không phải không có nhưng hiếm lắm.

Tôi hỏi các truyện ngắn của anh đều viết ở Tây Bắc chứ. Ông khẳng định ngay không phải đâu. Chỉ đọc sách và ngẫm nghĩ. Gọi là có viết một vài mẩu Những ngọn gió Hu Tát nhưng còn sơ sài lắm. Về Hà Nội rồi mới viết. Viết một hồi như thế, nhanh lắm, hoạt lắm, cứ như không. Không khó khăn gì. Chỉ Tướng về hưu là dụng tâm nhiều. Cũng chả nghĩ viết rồi nổi tiếng như thế. Nói rồi ông cười rất bí ẩn. Hai con mắt nheo nheo. Chắc ông cười hai chữ ”nổi tiếng”. Tôi nói nổi tiếng về văn chương là nguy hiểm lắm. Chả ra gì. Ông nhìn tôi chằm chằm tỏ vẻ ngạc nhiên. Tôi nói: Em thấy ở Việt Nam những nhà văn nổi tiếng đa phần là khốn khổ khốn nạn. Người thì yểu tử, người thì nghèo khổ khốn đốn. Ông lại nheo mắt nhìn tôi cười và bỗng dưng ông hăng hái: Nổi tiếng ác hiểm lắm. Đâu chỉ ở ta, thế giới đều thế. Nổi tiếng văn chương đều bị khốn nạn cả. Chữ nghĩa nó độc lắm. Tôi nói cũng là do tài mệnh đố kỵ nhau. Ông bảo: Không chỉ người làm cho mình khốn nạn đâu mà bản thân mình cũng làm cho mình khốn nạn. Đâu chỉ mình khốn nạn có khi còn vạ cả sang người thân gia đình.

Thấy tôi chăm chú ông cởi mở: Mình viết cả tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, phê bình nhưng truyện ngắn thành công hơn. Mọi người thích hơn. Tôi nói: Cái mọi người thích cũng không hẳn là cái anh nhà văn ưng nhất. Ông cười cười: Truyện ngắn là vừa tầm. Truyện ngắn là vừa với cái tạng người Việt. Mỗi dân tộc có cái đặc tính riêng. Cứ nhìn xem nước mình cái gì cũng nho nhỏ xinh xinh. Cái Bút tháp, Tháp rùa, Chùa Một cột, Quốc Tử giám, Cố đô Huế, Đền Hùng,… cũng đều nho nhỏ xinh xinh thôi. Văn chương ta còn lại cũng thế đa phần là mấy bài thơ tứ tuyệt, thất ngôn, câu đối, tạp văn… Mà núi cũng không cao, sông cũng không dài, hồ cũng không sâu, đất đai cũng không rộng, biển cũng không lớn… rồi ông cười và bảo: Nó cũng tương đồng với tâm tính và sở thích của con người nước mình. Tôi hỏi: Nghĩ thế nên ông chọn truyện ngắn. Không phải mình chọn đâu, ông nói, mình viết nhiều thứ nhưng thấy truyện ngắn mọi người thích hơn.

Đang dở câu chuyện thì Bách mời bố và tôi lên tầng ngôi nhà mới xây đối diện ăn cơm. Sau câu chuyện, trước khi đi ăn cơm, tôi tặng anh trường ca Phồn sinh mới in. Anh xoay ngang dọc ngắm nghía cuốn sách cười cười và lẩm nhẩm. Dày quá dày quá. Thái độ ấy chả ra khen chả ra chê. Tôi tự thấy ngượng vì sách dày và to quá. Tôi biện bạch, em viết lâu rồi giờ mới in lại thấy nó dày quá biếu ai cũng xấu hổ. Bây giờ người ta đọc mạng chỉ dăm câu ba dòng thôi, mình lỡ viết dài quá. Thấy thế ông động viên: Văn chương là tạng người, mình cứ viết thôi. Đừng cầu tiếng tăm. Tiếng tăm mà làm gì. Em cũng có tuổi rồi. Cứ viết đi nghĩ gì nữa. Văn chương lạ lắm không viết không được. In cũng được, không in cũng có sao đâu. Còn viết được thì mình cứ viết.

Trước khi ngồi vào mâm cơm, ông dẫn tôi tới xem những chiếc đĩa ông vẽ chân dung các nhà văn nổi tiếng của ta. Bức nào cũng rõ ra thần thái. Ông nói khi còn trẻ ông muốn trở thành họa sĩ. Nhưng rồi đời đun đẩy thế nào lại đi học sư phạm. Làm nghề giáo ở mãi miền núi. Miền núi ngày xưa mù mịt lắm. Giờ anh vẫn rất muốn vẽ. Trong các bức vẽ của ông ông thích thú nhất bức vẽ Tướng về hưu. Ông bảo tôi hôm nào qua đây thư thả ông vẽ một bức chân dung chơi. Bữa cơm có thêm một vài người bạn họa sĩ. Chúng tôi uống rượu còn ông Thiệp chỉ ăn cơm với đậu phụ và dưa muối. Chắc là đang dở câu chuyện nên ông vừa ăn vừa nói cùng tôi câu chuyện văn chương và luận bàn về sự nổi tiếng. Hôm ấy ông rất hào hứng nói nhiều và nói những chuyện tâm linh nghe rất ghê. Tôi vừa uống rượu vừa tiếp lời ông. Thấy ông ăn xong rồi mà vẫn ngôi lại nói chuyện sợ ông mệt nên chúng tôi mời ông đi nghỉ trưa. Khi ông đi rồi Bách nói: Hôm nay bố cháu gặp chú, cháu thấy bố cháu vui quá. Bố cháu nói nhiều, bình thường bố cháu chả tham gia ăn uống đông thế này đâu.

*

Rồi tôi nghe tin ông ốm. Hôm tôi đến thăm có rủ thêm nhà thơ Ngô Đức Hành cùng đi và dặn anh ghi chép đầy đủ để viết một bài về ông Thiệp. Bài ấy nhà thơ Ngô Đức Hành đã viết và in trên Tinh Hoa Việt ngay sau đó.

Chúng tôi tới thăm ông Thiệp lúc đã chớm hè. Chị Trang, vợ ông, trải một chiếc chiếu cói dưới nền nhà để ông nằm cho mát. Chị thanh minh ông vốn nằm trên giường nhưng hay xoay người trở mình nên bị ngã mấy lần. Thấy chúng tôi tới ông rất vui. Tôi giới thiệu nhà thơ Ngô Đức Hành với ông. Chúng tôi ngồi xuống bên ông. Tôi vừa bóp chân cho ông vừa thăm hỏi.

Tôi bảo ông Thiệp là bậc kỳ tài, hiếm có. Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp đã làm cho văn chương thời kỳ đổi mới thay đổi căn bản. Người viết không viết như cũ nữa, người đọc không đọc như cũ nữa. Ông cười bảo chả phải thế đâu. Tôi chỉ là anh văn xuôi. Chỉ là anh giáo viên cấp ba thôi, trình độ văn hóa thì không có, lại lười biếng. Tôi là thằng ăn may. Rồi ông vừa cười vừa kể: Trời tối Trạng Lợn đi qua một cái làng, ý là vào đó ngủ nhờ, lại thấy ở cổng làng dựng một cái chày đứng. Thấy lạ, Trạng Lợn bèn lấy bút ra mài mực viết vào chày hai chữ ”Đừng cháy” rồi bỏ đi. Đêm ấy trong làng cửi lửa thế quái nào lại cháy sạch. Nhìn cái chày còn lại có hai chữ “đừng cháy” người ta sợ quá bảo chuyện cháy làng là có thánh phán rồi. Buồn cười quá, cứ nghĩ nó ám ảnh suốt cuộc đời viết văn của tôi.

Nói thế nhưng ông vẫn hồ hởi: Đổi mới văn chương là thay cái cũ bằng cái mới phù hợp với bạn đọc mới. Đổi mới đầu tiên phải phá vỡ cái cũ giống như khoan bê tông, giải phóng mặt bằng, rất khó chịu, có khi bất công và lộn xộn. Đổi mới văn chương phải hướng tới ý thức xây dựng một cơ sở mỹ học mới ngay trong đời sống văn học nước nhà là điều quan trọng nhất. Đó là điều mà các thế hệ nhà văn thời đổi mới mấy chục năm qua đã làm. Đừng nên coi là đúng hay sai, nhưng cần biết nó đã diễn ra, đã sống, đã tồn tại một thực thể sống. Văn học phải hướng về chân – thiện – mỹ, có thế mới giữ được bản sắc dân tộc và tự tin hòa nhập.

Ông Thiệp cho rằng, làm văn chương thì phải làm sao vừa giữ được miếng ăn, vừa có được tác phẩm, được in ra mới toàn tài. Nếu không chỉ thích thì làm, chỉ là chuyện trai gái thôi thì nói làm gì. Trong văn học để cho có một tiếng vang, tiếng nổ lớn thì phải thêm nhiều thứ lắm, phải toàn tâm toàn ý. Tôi chỉ là anh văn xuôi viết được mấy cái truyện ngắn mà nổi tiếng. Các ông bảo tôi là bậc kỳ tài ư? Chả phải đâu. Các ông mới thấy một khía cạnh. Còn tôi đang nằm như con chó dưới chân các ông đây. Nó là nghiệp chướng của văn chương đấy. Các ông chưa thấm thía thế nào là nghiệp chướng đâu. Nhiều khi mình dại đột, mình kiêu ngạo, rồi cứ tin là mình hay, thực ra mình dở lắm. Mình vừa dốt, lại còn kiêu ngạo, hiếu thắng, rồi đủ trò cả. Mình cứ tưởng mình là tinh vi, không ăn thua đâu. Văn chương nó không cần sự tinh vi. Nó cần sự tinh tế. Nó cần sự trong trẻo. Nó cần sự vô tâm. Vô tâm diệu hữu. Nhà văn cần phải tìm hiểu về Thiền, phải đọc nhiều, ngẫm nhiều, ăn đòn nhiều thì lúc đó mới nhận ra. Mình làm mọi thứ nó đều vô tư thì lúc đó mới có điều kỳ diệu hiện hữu. Viết văn ông phải vô tâm thì mới xuất hiện ra điều kỳ diệu. Tưởng như thế thôi nhưng mà giời có mắt. Ông mà làm với mục đích mờ ám, với một sự tinh vi tỏ ra ta hơn đời các thứ này kia thì trời biết đấy.

Tôi hỏi tai sao bây giờ nằm đây anh mới nghĩa thế. Ông bảo bây giờ ăn no đòn rồi mới nghĩ lại. Đi theo văn chương nghĩa là đi theo cái nghề. Làm gì cũng phải theo đạo. Cuối cùng của cuộc đời vẫn là đạo đức. Đạo là con đường thoát hiểm. Đức là cái đích đến. Ở đời ai cũng là đi tìm đạo thôi. Cửa đầu tiên của đạo là tình (đực cái, âm dương), tiếp theo là hỷ xả, tiếp đến là từ bi rồi mới giác ngộ (giác ngộ là có dấu ấn Thượng đế rồi), đến đấy là qua ranh giới tầm thường, lúc đó mới tìm ra đạo, hiểu được thế nào là đạo đức, vượt qua ranh giới đúng sai. Đến đó mới đạt thước đo của chân – thiện – mỹ.

Ông nói tiếp: Anh làm văn chương cũng vậy không làm văn chương cũng vậy. Làm văn chương anh lại còn dạy đời nữa. Vì thế mà nó vận vào cái nghiệp của mình. Tôi xác định nghề là phải hành nghề, còn nghiệp thì đến sau nó ám vào số phận của mình. Nó ám vào vợ con, nó ám vào bồ bịch của mình. Đấy cũng là tiền định, một miếng ăn, một hớp nước cũng do trời định sẵn. Chúng ta phải trải qua bao nhiều kiếp bây giờ mới là cái thằng người của cái ngày hôm nay. Tôi nói: Em nghĩ thơ văn chữ nghĩa nó khủng khiếp lắm nên viết rồi mà không dám in. Ông Thiệp nói: Đúng đúng thơ văn chữ nghĩa nó khủng khiếp lắm. Ai cũng gặp khó khăn trên đường đời. Cũng đều bị cuộc đời thử thách nhưng cuối cũng vẫn là đạo đức.

Ông cho rằng: Văn chương nghệ thuật nhiều người cứ nghĩ làm một chút để nổi danh thôi. Nhưng không có đâu. Phải lao động chữ nghĩa ghê lắm, phải rút từ xương từ tủy của mình. Anh phải sống, phải lao động cận lực rồi cuối cùng mới ra được một câu hay, một tình huống hay để đời. Văn chương nó tra tấn con người ta ghê lắm.

Ông nói với tôi: Số phận của ông cũng là vừa may mắn vừa là hẩm hiu đã cho ông gặp được cô gái Hồi giáo để viết nên Phồn sinh. Cô gái ấy là cái đẹp ông đặt lên đầu gối ông để ngắm nhìn, ngợi ca, khao khát. Nhưng ông không bao giờ mường tượng thấy là ông đặt một điều tuyệt vời lên trên thân xác mình. Ông không hề biết rằng ở đó nó tiềm tàng bao nhiêu điều nguy hiểm cả về vật chất và tinh thần, cả về tình cảm và danh dự con người. Nhưng số phận cũng đã cưng chiều ông. Đã mang cho ông một người con gái như thế, còn mong gì hơn nữa… Nhưng rồi ông phải biến tất cả những điều đó thành con chữ cũng là đã khó rồi, nhưng lại phải thổi hồn vào chữ nghĩa, để người đọc cầm đến cuốn thơ của mình phải run bắn người lên. Chính những dòng chữ ấy nó cải tạo tâm tính của bạn đọc và nó cũng cải tạo tân tính của ông nữa. Lúc ấy mình mới gọi là thành công. Cũng chưa hết đâu, phải đợi đến cuối đời xem mình có bị rơi vào trường hợp nào đó giống như thằng ngốc Nguyễn Huy Thiệp không. Tức là bị rơi vào bẫy của tạo hóa. Ông ạ, tôi là trời cho nên trời bắt phải trả, có ai cho không ai cái gì đâu.

Bỗng dưng ông bần thần như chợt nhớ điều gì, rồi thốt ra: Cả đời tôi không hòa nhập được với chỗ nào. Tính tôi nó tự nhiên quá. Nó như là cái chưa được giáo dục. Mà âm mưu của cuộc đời nó ghê quá. Tôi là người toàn tâm, toàn ý, hết lòng với văn chương.

Hà Nội, 22.3.2021

N.L.K