(Vanchuongphuongnam.vn) – Tôi nhớ lại cả một thời thơ ấu xa làng quê ra tỉnh học, vào buổi sáng muộn thứ Bảy cuối tuần những ngày giáp Tết, sau lễ đưa Táo Quân về trời, tôi thường hẹn các bạn học tại nhà trọ bên bờ sông Cái Khế, để cùng nhau về quê nghỉ Tết. Bầu trời cao lồng lộng trong xanh, mượt mà tráng gương như được quét sạch bởi cơn gió đông hắt hiu se lạnh từ con sông Hậu mênh mông, xao xác thổi về hơn mấy tuần qua. Với túi sách vở trĩu nặng và quần áo lủ khủ bên hông, anh em vui vẻ, mặt mày hí hởn, lũ lượt kéo đi một đoàn như bầy vịt. Ôi, biết bao nhiêu ước mơ trong sáng hiện ra trong tâm khảm khi tôi được về gặp lại cha mẹ yêu thương, anh em ruột thịt ở quê nhà sau mấy tháng dài xa cách.
Nhà văn Nguyễn Thanh
Qua khỏi chiếc cầu sắt Cái Khế cũ kỹ, màu đen bạc thếch với mưa nắng thời gian và tang thương binh lửa còn lại từ thời thực dân, chẳng mấy chốc, anh em bè bạn tôi lại cảm thấy hồi hộp đi qua cầu Sáu Thanh bằng gỗ, cao chông chênh để bước vội về bến bắc Cần Thơ (phà /le bac). Ngày ấy chưa có chiếc cầu thế kỷ Cần Thơ nối nhịp đôi bờ sông Hậu như hiện nay, mỗi lần muốn qua sông, không đi đò ngang đôi khi nguy hiểm vì sóng to gió cả, tôi phải đi phà mất hơn tiếng đồng hồ. Nhưng đứng trên phà bồng bềnh qua sông, cảm giác dễ chịu trước không khí trong lành mát mẻ, nghe sóng vỗ lách tách mạn phà, tôi có dịp thả hồn thơ phiêu lãng: Thành phố lên xuân cả bốn mùa/ Mai đào không đợi sắc hoa phô/ Lưng trời chưa có bầy chim én/ Xuân cũng theo về năm ngón thơ (Ngũ Lang), hoặc trầm tư vu vơ trước cảnh trời rộng sông dài. Hậu giang vào xuân là con sông thơ, đẹp như một dải lụa màu, lác đác thuyền ngư, long lanh ánh dương giữa những hòn tiểu đảo xanh um thủy liễu: Tiểu đảo mươi chòm xanh thủy liễu/ Trường giang một dải rợp ngư thuyền.
Chiếc phà cao to, hai tầng, chở nặng lữ hành và xe cộ, gầm gừ như con hà mã, lừ đừ cặp bến Bình Minh, thả anh em tôi, hành khách và xe cộ lên bờ. Xế trưa, trời đứng bóng, tôi và các bạn thả bộ dọc theo con hương lộ mặt đường còn lởm chởm đá núi và đất nung, lẹp bẹp hướng về phía chợ Tân Quới, nơi có mấy cây sao cổ thụ cao lênh khênh đứng cạnh đình làng. Dọc đường làng, tôi cảm thấy trong lòng dậy lên niềm vui ấm áp khi nhìn nhà cửa, cảnh vật hai bên trong những ngày cuối chạp đã bắt đầu nhuốm lên màu Tết. Những vỉ bánh tráng dựng lớp lớp trước sân phơi, những nia bánh phồng, sàng chuối khô hương thơm ngào ngạt, nằm san sát trên mái nhà bắt đầu quyến rũ đàn chim trao trảo sáng chiều không ngớt vần vũ bay quanh. Trong không gian trong sáng chờ xuân, dọc đường, tôi thỉnh thoảng bắt gặp chủ nhà những gia đình khá giả, đang xúm xít lo quét vôi lại nhà cửa, chuẩn bị đón chào xuân mới.
*
– Thưa ba mẹ, con mới về.
– Ừ Thanh, con mới về.
Ba mẹ biểu lộ vẻ vui mừng nhìn lại khi thấy tôi vừa về đến nhà rồi tiếp tục công việc. Ba tôi trở ra sân cúc cúc, kíp kíp gọi bầy gà vịt cho ăn suất chiều để lùa vô chuồng. Mẹ tôi ở góc nhà sau đong mấy lít nếp tốt, chuẩn bị gói bánh tét cúng ông bà. Chị ba tôi bên chiếc cối đá, đang lo xây bột làm bánh ngoài hiên nhà trong khi chị tư tôi đang ngồi lặt một rổ hành kiệu tươi rói hăng hắc hương nồng chuẩn bị làm dưa chua.
Gác tạm lại việc sách đèn sang một bên để lo dọn dẹp tiếp gia đình vì ba mẹ tôi đã già yếu. Việc thóc lúa ruộng đồng coi như các chị đã giải quyết xong, mấy cái đìa to đậm đặc cá tôm ngoài ruộng, các chị tôi cũng đã tát cạn, bắt cá rọng vào khạp từ mấy ngày qua. Sáng sớm hôm sau, tôi sang nhà bác Tư nhắc các anh họ tôi chuẩn bị giở đống chà lớn bên cây cầu dừa dưới sông, lấy cá chia cho bà con cùng sử dụng trong các ngày Tết. Thời gian lơi bớt công việc, tôi lãnh phần thay thế chị tôi, lau chùi mấy bộ lư đồng trên bàn thờ ông bà, tổ tiên, và sử dụng cây chỗi cán dài, quét sạch bụi bặm, mạng nhện bám trên trần nhà.
Trước ngày ba mươi Tết, công việc ở quê dồn dập nhiều thứ. Có đêm các anh họ rủ tôi ra đồng cắt những bụi nếp vừa quá thời con gái đem về rang trong chão lớn, sau đó đem ra cối quết làm cốm dẹp. Tôi rất thích đêm đêm được xem các anh tôi giã cốm dẹp hoặc quết bánh phồng. Tiếng chày ba (*) cụm cùm cum giả nếp làm cốm dẹp hoặc tiếng chày gỗ nện bình bịch vào khối nếp to nấu chín trong cối làm bánh phồng, tạo nên một âm vang trữ tình đậm hồn dân tộc, quê hương trong những đêm thanh vắng ở nông thôn ngày xưa. Ban ngày, mẹ tôi ngồi bên ngoài hiên nhà tráng bánh cho chị ba tôi đặt bánh vào vỉ mang đi phơi. Chị Tư tôi lo ép chuối, phơi khô để làm mứt. Thằng Tý em trai tôi o bế lại mấy chiếc lọp, nò đi bắt cá dưới sông hay ngoài ruộng. Sáng tin sương không ra vườn, ba tôi dành thì giờ chăm sóc cho mấy chậu hoa mai, hoa tử kinh để trưng bày vui nhà trong mấy ngày xuân. Buổi trưa rảnh rang công việc nhà, ba tôi thong dong vừa hút thuốc vừa săn sóc mấy chú chim cu xinh xắn để ban ngày nghe tiếng gáy cúc cu vui vui của chúng. Mấy con gà cảnh sắc lông sặc sỡ cũng được ba tôi đặc biệt chăm sóc để ban đêm được nghe tiếng gáy dõng dạc báo thức ò – ó – o rất sảng khoái của chúng.
Trong không khí mát mẻ ngày chớm xuân ở làng quê xưa, cứ bắt đầu vào hạ tuần tháng Chạp, dưới sông bắt đầu xuất hiện rộn ràng mấy chiếc ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm Kohler chạy khắp làng trên đó có những người xem ra không phải là người trong làng. Họ chính là nhân viên gánh hát đi cổ động cho chương trình hát Tết của đoàn. Ngồi trên chiếc ghe trên mui treo phất phơ lá cờ biểu tượng của đoàn hát, họ gióng trống dập dồn, phát loa inh ỏi, quảng cáo cho đoàn hát đang đóng đô tại nhà lồng chợ xã để biểu diễn phục vụ công chúng mộ điệu cải lương trong mấy ngày xuân.
*
Màu Tết nhà tôi ở quê thực sự thể hiện rõ nét bắt đầu từ thời điểm đưa ông Táo về trời. Trước đó một hôm, đã có mấy em nhỏ chạy lăn xăn ngoài đường hô to: Cò bay, ngựa hạy, đưa ông Táo về trời đây hoặc chịu khó đến từng nhà mời mua loại vàng mã vẽ đủ các hình thù nguệch ngoạc để đốt trong lễ đưa tiễn Táo quân về trời. Trên các nẻo đường vào thôn xóm bắt đầu xuất hiện một số người ham vui lén lút chơi bầu cua cá cọp, xí ngầu lắc hay gầy sòng bạc đỏ đen sát phạt nhau, thường không tránh khỏi xảy ra gây gổ cãi lộn, đôi lúc dẫn đến đánh nhau. Nhóm thanh niên này thì tổ chức đá gà ăn tiền trong một bãi sân rộng khuất sau một lùm cây rậm, trong khi một nhóm người khác bày tiệc nhậu nhẹt, rồi mày chén tao chén, ly cạn ly đầy, lắm khi cũng dẫn đến chuyện không hay giữa anh em cùng trong một chiếu rượu. Ba tôi suốt đời chỉ biết lam lũ lo làm ăn, không thích rượu chè dù chỉ một chút nhắp môi. Ba tôi trải nghiệm được cái hại khôn lường của những người quá chén nên anh em tôi theo gương cha, không ai là đệ tử của Lưu Linh, một đời chỉ biết lo học hành, làm ăn.
Không khí mừng xuân đón Tết ở nhà tôi mỗi năm chỉ kéo dài trong thời gian khoảng một tuần mặc dù trong nhà ai nấy cũng chuẩn bị sẵn mọi thứ từ sau ngày hai mươi ba tháng chạp âm lịch. Không như một vài thằng bạn, những ngày gần Tết, được nghỉ học, chúng nó quẳng sách vở sang một bên rồi bỏ nhà đi chơi bời xả láng, tôi giảm bớt học hành để giúp đỡ ba mẹ tôi dù mọi việc trong gia đình tôi đã có hai chị giỏi giang lo liệu tươm tất. Với tôi, ngày Tết truyền thống thực sự có ý nghĩa chỉ cần cô đọng trong vài ba ngày xuân thiêng liêng của họ tộc đã được ba mẹ tôi sắp xếp thành lệ mỗi năm. Hai cái đìa đậm đặc đủ các loại cá ở sau ruộng được hai chị tôi gồng vai tát cạn hai hôm trước và đống chà lớn sung túc cá tôm dưới sông, ba tôi đã nhờ các anh họ tôi giở hôm nay, để ngày mai tôi và thằng Tý em tôi mang cá tôm và bánh trái đi biếu cho bà con nội ngoại tôi ở làng bên.
Trước đêm trừ tịch hai hôm, cũng như bao nhiêu gia đình khác trong làng, ở nhà tôi bao nhiêu công việc xem như đã chuẩn bị chu đáo cho mấy ngày đầu quan trọng nhất trong năm của một đời người. Trước thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, ba tôi đã lúi húi tìm lá cau khô làm đúng bài bản chiếc bùa bát quái tứ tung ngũ hoành treo trên ngọn cây nêu trước cửa nhà để trừ tà ma. Tinh sương ngày ba mươi Tết, theo lời nhắc nhở của ba tôi, các chị đã lo đủ một mâm ngũ quả gồm các loại trái cây tốt là được mà không quá rặp khuôn theo lề thói ước lệ phải tìm mua cho đúng các loại trái: Cầu (mãng cầu) – Sung – Dừa – Đủ (đu đủ) – Xoài, năm thứ trái cây biểu tượng cho cụm từ mà người ta hay nói tếu cho vui miệng: Cầu sung vừa đủ xài. Trên nhiều tình huống xử sự của ba mẹ, tôi phát hiện ra một hiện thực chí lý là song thân tôi hay chú trọng đến nội dung, tinh thần hơn là hình thức, bề ngoài vì lẽ: Chiếc áo không làm nên thầy tu (L’habit ne fait pas le moine).
*
Đêm trừ tịch miền quê ngày xưa có phần yên ắng, không giống bầu trời sáng lòa với những vầng pháo hoa nổ lụp bụp trên bầu trời và tiếng ca hát rộn ràng từ máy phát thanh ở thành phố thời hiện đại. Không gian ngày Tết nơi thôn bản tĩnh lặng hơn với sinh hoạt ngầm trong phạm vi ấm cúng giữa các thành viên ruột thịt trong gia đình. Ba tôi vốn là một ông đồ nặng hồn thơ, mỗi năm có truyền thống tống cựu nghinh tân (tiễn cũ đón mới) bằng ít vần thơ. Đêm trừ tịch, ngay sau thời điểm thiêng liêng nhạy cảm nhất của năm mới, năm nào ba tôi đều ăn mặc đàng hoàng, ngồi vào bàn viết. Bên bình trà nóng mới pha, và gói thuốc lá bình dân, ba tôi bắt đầu viết lời khai bút đầu năm bằng một bài thơ tuyệt cú dù hôm nay tôi chẳng còn nhớ được câu nào. Bài thơ này là thông điệp đầu năm của nhà thơ nghiệp dư nói lên lời chúc lành tốt đẹp, gởi cho bạn bè, bà con khi gặp gỡ, thăm viếng nhau trong những ngày xuân. Nơi một góc ngoài hiên nhà, các chị tôi đang cẩn thận cho thêm củi vào chiếc lò đất, chăm sóc nồi bánh tét to kềnh đang sôi sùng sục trên ngọn lửa bập bùng như muốn quét sạch bóng tối của một đêm không trăng, thỉnh thoảng vọng lại từ xa mấy tiếng gà gáy sớm báo hiệu sang khuya.
Ở quê tôi ngày xưa, mùng một Tết được coi là ngày đoàn tụ chính thức của gia đình, ít ai ra khỏi nhà. Trường hợp con cái lớn đã trưởng thành có gia đình ra riêng, ở xa thì hôm ấy phải về thăm cha mẹ cho phải đạo: Mồng một Tết cha. Dù vậy, mọi người trong nhà vẫn ăn mặc đẹp, bánh trái, trà nước chuẩn bị đầy đủ sẵn sàng trên bàn như đang sắp sửa đón khách quý. Riêng tôi, là con trai cả trong nhà, có bổn phận đến viếng nhà bác tôi để mừng lạy ông cố sau đó tặng quà cúng Tết. Ngày mồng hai, theo truyền thống gia đình, anh em tôi ăn mặc đàng hoàng, có thể bắt đầu xuất hành đi thăm lần bà con, bè bạn gần xa. Ba tôi tính kỹ lưỡng, nghiêm túc luôn nhắc nhở những điều hay cho anh em tôi trước khi đi đâu trong những ngày đầu năm. Bởi lẽ, trong những ngày xuân thiêng liêng, sự hiện diện tại nhà người khác thầm mang ý nghĩa đi xông đất, đem may mắn đến cho họ nên ngoài y phục ăn mặc đàng hoàng, sáng sủa, chúng tôi còn cẩn thận giữ gìn cả lời ăn tiếng nói. Mục đích sao cho thể hiện được nhân cách của mình sự tôn trọng người khác để làm vui lòng mọi người trong khoảnh khắc tốt đẹp đầu năm. Thiện ý của ba là muốn nhắc tôi tư tưởng trải nghiệm của người xưa: Khởi đầu tốt đẹp, mọi sự về sau được suôn sẻ : Nguyên trinh hanh thông.
Buổi sáng mồng ba bắt đầu canh tư, lúc mấy con chim trao trảo ngoài vườn mận nhà sau báo hiệu bằng mấy tiếng lảnh lót reo vui, đánh thức cả nhà.
– Nồi nước sôi chưa bà, để tôi làm gà ? Giọng vui vẻ, ba tôi hỏi mẹ đang lúi húi làm việc trong nhà bếp .
– Sắp sôi rồi đó ông. Mẹ tôi biết ý, đã chuẩn bị nồi cháo gà chu đáo để ba tôi cúng đầu năm vào ngày mồng ba Tết.
Nhúng nước sôi, đem ra nhổ sạch lông gà xong, ba tôi đặt phần thân gà trần trụi như nhộng vào nồi cháo đang sôi sùng sục trên bếp lửa bập bùng và cố ý giữ lại cặp chân gà. Không khí gia đình ấm áp với sinh hoạt rộn ràng của những ngày mới, như đã thành lệ, ba tôi cầm đôi chân gà với những ngón cong queo tội nghiệp rồi ngắm nghía, trầm ngâm. Vui vẻ ra mặt, nheo nheo đôi mắt bên hai vành đã nhuốm hình dấu chân chim, sau tròng kính lão, ba tôi thao thao bất tuyệt. Thật không khác nào một chiêm tinh gia lão luyện hay nhà phong thủy chuyên nghiệp khiến tôi phải đầu hàng ba vô điều kiện!
– Năm nay, nhà mình sẽ làm ăn phát đạt. Mọi người đều khỏe mạnh. Ruộng rẫy mình trúng mùa lớn và thằng Năm – tác giả bài viết – sẽ thi đậu Tú Tài, vào sư phạm. Còn Thằng Tý em nó lên trung học, được cấp học bổng, rồi du học nước ngoài. Các em út nó cũng sẽ học hành tiến bộ hơn!
Ngày ấy, đã học sang đệ nhất cấp, tôi vẫn ngây thơ ngờ nghệch, không biết đã dựa trên cơ sở nào ở cặp chân gà khẳng khiu co quắp mà ba tôi đã tỏ ra làu thông chuyện quá khứ vị lai như thế! Mồng ba tết thầy, với lời lẽ dịu dàng khuyến khích, ba mẹ tôi không quên nhắc nhở đến viếng thăm những thầy cô ngày trước đã dạy dỗ và thầy cô hôm nay dù các vị ân sư ấy có ở nơi xa xôi cách trở dường nào: quan tâm đặc biệt đến những thầy cô đang gặp cảnh khó khăn trong cuộc sống túng thiếu, tuổi cao hay bệnh tật. Ngày trước, không mấy khi học trò có hiếu dám thẳng thừng gởi tiền cho thầy cô trong bao thư, dù có thực dụng như thời hiện đại kim tiền hôm nay. Yêu thương kính trọng, ý thức được công lao dạy dỗ của thầy cô, vào ngày những mùa Tết năm xưa, tùy theo hoàn cảnh, chúng tôi chỉ dám thể hiện lòng biết ơn sâu nặng bằng cách mang tặng thầy cô con gà, con vịt xin của ba mẹ hoặc hộp sữa ký đường, vài ký gạo, lít nếp, củ khoai… với cung cách lễ độ và lời biết ơn thốt ra từ sâu thẳm trái tim mình. Làm như vậy, thực lòng tôi mong bớt đi nỗi niềm tri ân còn canh cánh trong lòng, chứ làm sao tôi có thể đền đáp được chút công lao dạy dỗ lao tâm khổ trí của thầy cô, cũng như sự hy sinh cao cả trong thâm tình sinh thành dưỡng dục của mẹ cha: Thứ nhất ơn nặng dưỡng sinh/ Thứ hai nghĩa trọng là tình ân sư.
Mãi cho đến khi học hành thành đạt ra trường, tôi theo nghề gõ đầu trẻ và lập gia đình. Cứ mỗi độ nhìn chim én bay về báo hiệu tin xuân, tôi cảm thấy trong lòng càng có bổn phận nhiều hơn đối với thầy cô ngày trước của tôi. Gắn bó suốt đời với nghề dạy học, am hiểu hoàn cảnh đặc biệt và tâm tư sâu kín của người cầm phấn, tôi không ưa những câu lý thuyết suông hoặc huênh hoang máy móc hô khẩu hiệu: Tôn sư trọng đạo chỉ đậu nơi chót lưỡi đầu môi của một số người đạo đức ảo. Không phải đợi đến ngày 20/11 mỗi năm, tôi mới biểu lộ lòng biết ơn đối với tất cả những thầy cô đã thực lòng dạy chữ để cho đời tôi có ý nghĩa. Ấn tượng sâu đậm trước hết với những thầy cô đầu tiên đã cam chịu khổ cực dạy tôi bập bẹ đọc từng chữ a, b… khi mới vào học trường sơ đẳng tại làng quê. Nhưng chua xót thay! Những vị ân sư khả kính ngày xưa ấy giờ đây hầu hết đã hóa ra người thiên cổ.
Hôm nay, trong không gian đầm ấm, ngào ngạt hương xuân, rạng ngời màu Tết, tôi vui Tết với hoa mai hoa đào rực rỡ thắm tươi, bên những dĩa bánh mứt thơm ngon và bữa ăn đầy đủ cao lương mỹ vị, với sự hiện diện của thân nhân học tộc và anh em bè bạn. Trước bàn thờ tổ tiên nghi ngút khói hương, tôi tự hỏi: Ta đã làm được gì có ý nghĩa trong những ngày qua và từ nay còn phải làm gì thêm để không bị coi là mất gốc, để khỏi phải hổ thẹn với ông bà, tiền nhân trong một đất nước Thuấn Nghiêu thịnh trị thanh bình.
Những ngày chờ Xuân 2021
N.T
*Giã gạo chày ba: Ba lực điền chuyên nghiệp, mỗi người cầm 1 chày, đứng cách đều khoảng quanh cối, giả theo từng chu kỳ với 3 nhịp chày khác nhau vị trí. Tại cùng thời điểm mỗi nhịp, trong cùng lúc chày 1 nện xuống phần gạo giữa lòng cối (nghe tiếng cụp), thì chày 2 nhịp trên miệng cối (nghe tiếng cum) trong khi chày 3 đang giơ lên khoảng không, như nện vào không khí, không gây ra tiếng. Đó là “Giã gạo chày ba ”