Những mối quan tâm chủ yếu về vấn đề gia đình, trong các sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng từ 1985 đến nay

835

Nguyễn Công Thanh

(Vanchuongphuongnam.vn) – Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam đương đại. Ông sáng tác thành công trên các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn thuộc nhiều đề tài: đề tài miền núi, đề tài người trí thức, đề tài gia đình ở thành thị, đề tài thiếu niên… Thể loại nào, đề tài nào ông cũng có tác phẩm để đời, sống mãi trong lòng độc giả. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ đề cập đến mảng sáng tác của nhà văn về đề tài gia đình từ 1985 đến nay.


Nhà văn Ma Văn Kháng.

1. Sự kiên trì theo đuổi đề tài gia đình trong hành trình sáng tạo của Ma Văn Kháng

Sống trong môi trường đô thị thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ của đất nước, khi “nhu cầu đổi mới đập cửa mọi nhà văn”, Ma Văn Kháng đã tự đổi mới mình, vượt lên chính mình. Ông đã chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng nói lên sự thật; chuyển từ đề tài đấu tranh cách mạng của các dân tộc ở miền núi cao phía bắc sang đề tài cuộc sống nơi đô thị đầy phức tạp, đa đoan. Mối quan tâm lớn nhất của nhà văn lúc này là số phận con người trước thực trạng xã hội ngày càng xuống cấp, nhân tình thế thái đảo điên.

Một trong những đề tài được nhà văn quan tâm và gặt hái những thành công nhất trong giai đoạn sáng tác từ 1985 đến nay là vấn đề gia đình Việt Nam trong thời mở cửa. Những tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời cùng các truyện ngắn Trung du, chiều mưa buồn, Trái chín mùa thu, Mẹ già, Mẹ và con, Mất điện, Kiểm, chú bé, con người, Một chốn nương thân, Heo may gió lộng, Bồ nông ở biển, Trăng soi sân nhỏ, Anh thợ chữa khoá, Chọn chồng, Anh cả tôi, người sung sướng, Nợ đời, Suối mơ, Gái có con, Phép lạ thường ngày, Đất mầu, Nhan sắc đàn bà, Cỏ dại… là những sáng tác thuộc loại đặc sắc nhất, góp phần quan trọng “đặt Ma Văn Kháng vào đội ngũ những cây bút đang có nhiều đóng góp to lớn vào việc đổi mới nền văn xuôi nghệ thuật của dân tộc” [15, tr. 67]. Phần lớn những tác phẩm đạt giải thưởng Quốc gia và khu vực của Ma Văn Kháng là những tác phẩm viết về đề tài gia đình hoặc liên quan mật thiết đến vấn đề gia đình như tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, tập truyện Trăng soi sân nhỏ. Chính nhà văn đã chọn Côi cút giữa cảnh đời làm tác phẩm hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của mình. Ngay cả những tác phẩm thành công viết về đề tài khác như Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Thầy Khiển, Thầy của chúng em, Tóc huyền màu bạc trắng… vấn đề gia đình vẫn được thể hiện khá sâu sắc. Gia đình trở thành nơi khởi đầu, nâng đỡ, hoặc đọa đày, kết thúc bi kịch của người trí thức.

Xét trong mối tương quan với các cây bút sáng tác về đề tài gia đình Việt Nam sau 1985 như Lê Lựu, Dương Hướng, Chu Lai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… thì Ma Văn Kháng nghiễm nhiên trở thành “chủ tướng” trong việc khơi lại nguồn mạch viết về đề tài gia đình vốn bị ngưng đọng gần nửa thế kỷ trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông không chỉ là người đi tiên phong trong đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới đề tài sáng tác, nắm bắt kịp thời những vấn đề cấp bách xã hội đặt ra đối với người nghệ sĩ có lương tâm và trách nhiệm mà còn để lại những dấu ấn riêng trong từng thể loại. Những tác phẩm hay nhất của Ma Văn Kháng không chỉ đẩy ta vào “dòng đời”, “mạch sống” hôm nay mà nó còn “gắn nối với mạch văn truyền thống là chủ nghĩa nhân văn và tình yêu thương con người” [13, tr. 197 – 198]. Vì vậy, bên cạnh phê phán, đả phá lối sống ích kỷ, buông thả theo những dục vọng thấp hèn, chạy theo đồng tiền của con người trong nền kinh tế thị trường, ông còn phát hiện được sức mạnh tiềm tàng trong con người Việt và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc tạo trụ đỡ cho con người và cộng đồng dân tộc. Nhà văn thường không kết tội nhân vật lầm lạc mà kêu gọi cộng đồng hãy quan tâm đến cá tính của con người và cuộc sống gia đình. Tác phẩm viết về gia đình của ông thường kết thúc tươi sáng, lạc quan chứ không bi thảm như trong tác phẩm của Lê Lựu, Chu Lai, Trung Trung Đỉnh hoặc dằng xé, trả giá theo triết lý vay – trả của Dạ Ngân.

Do đâu mà một nhà văn nhiều năm sống ở miền núi lại có thể sau một thời gian ngắn đạt được nhiều thành tựu trong sáng tác về đề tài gia đình ở đô thị?

Trước hết, Ma Văn Kháng là nhà văn viết theo khuynh hướng hiện thực, chỉ tưởng tượng hư cấu trên cơ sở một hiện thực đã thấy, đã biết, đã cảm nhận được. Các sáng tác về đề tài gia đình của ông chủ yếu lấy chất liệu từ những người thân yêu ruột thịt. Theo nhà văn cho biết “các nhân vật trong Mùa lá rụng trong vườn hầu hết đều mang dáng nét của những người trong gia đình tôi. Cả biến thái của câu chuyện gia đình cũng là chuyện xảy ra trong gia đình tôi. Trung tá Đông phảng phất hình ảnh của ông anh tôi. Lý là tổng hợp mấy nét vẽ của mấy bà chị dâu tôi”. Còn Côi cút giữa cảnh đời “là cuốn sách tôi viết về gia đình mình. Trong đó có hình ảnh mẹ tôi, một người tôi luôn luôn yêu thương kính trọng và không cầm được nước mắt mỗi khi nghĩ đến” [12]. Đồng thời, Ma Văn Kháng là người rất yêu thương, trân trọng phụ nữ – những nhân vật vừa là tội nhân vừa là phạm nhân của bi kịch gia đình. Ông phát hiện ra những nét đẹp, duyên dáng, quyến rũ, đáng yêu ở nữ giới đã góp phần làm cho cuộc sống căng thẳng, đối đầu trở nên cân bằng, dễ chịu. Nhà văn không khắt khe với họ mà trái lại còn dành nhiều tình cảm trân trọng, cảm thông và trìu mến đặc biệt với họ.

Mặt khác, trước khi trở thành nhà văn, Ma Văn Kháng là nhà giáo có nhiều năm đứng trên bục giảng. Tấm lòng nhân ái, độ lượng, vị tha của người thầy được tắm gội hơn 20 năm trong môi trường trong lành của những người dân miền núi hiền lành, chất phác, đôn hậu, thuỷ chung. Vì thế, chất nhân văn trong con người nhà giáo – nhà văn Ma Văn Kháng ngày càng được bồi đắp, nuôi dưỡng.

Là người chọn văn chương làm sự nghiệp cả đời mình, Ma Văn Kháng rất có ý thức về trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với con người và cuộc sống. Ông đã giành nhiều tâm huyết cho hình tượng văn học. Bao nhiêu thú vui ông giành hết cho văn chương. Ông quan niệm: “Đã chọn văn chương là chọn một con đường gian lao, khổ ải, là tự đày đoạ mình. Văn chương lắm khi vô định lắm. Nhưng đam mê như sống trong một mối tình lớn không bỏ được. Phải không màng lợi lộc, danh vị thì mới đủ sức lao động khổ sai trên cánh đồng chữ nghĩa này” [12]. Vì thế, Ma Văn Kháng rất khắt khe với chính mình. Cứ mươi năm viết ông lại làm một cuộc “kiểm kê”, đọc duyệt lại những cái mình viết một cách thật khách quan để giữ lại những tác phẩm đã được thời gian thử thách và loại thải những tác phẩm chưa ưng ý.

2. Sự quan tâm thể hiện và cắt nghĩa những bi kịch của gia đình thời mở cửa

2.1. Bi kịch gia đình do đồng tiền cùng lối sống thực dụng đưa tới

Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới, đưa nước ta hội nhập vào sự phát triển chung của toàn cầu. Bên cạnh những thành tựu rất đáng ghi nhận về mặt kinh tế – xã hội mà chúng ta đạt được nhờ chính sách mở cửa thì những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã gây những tác động không nhỏ, làm xói mòn nhiều giá trị truyền thống, đảo lộn nhiều chuẩn mực đạo đức.

Là một trong những nhà văn đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, Ma Văn Kháng bằng cảm quan nhạy bén của người nghệ sĩ đã phát hiện và phản ánh kịp thời những bi kịch trong gia đình Việt Nam ở thời kỳ phát triển mới của đất nước. Hàng loạt tác phẩm của ông viết về cuộc sống gia đình đô thị (cả tiểu thuyết và truyện ngắn) đã phê phán gay gắt lối sống ích kỷ, buông thả theo những dục vọng thấp hèn, coi tiền bạc là trên hết, đã phá vỡ các mối quan hệ thông thường trong nội bộ gia đình.

Lý, Cừ (Mùa lá rụng trong vườn) sống trong một gia đình trí thức nề nếp, coi trọng giá trị tinh thần, trên kính dưới nhường, tiêu biểu cho gia đình Việt Nam hiện đại. Vậy mà cuộc sống khó khăn, đầy biến động của đất nước sau chiến tranh, cùng với việc đề cao đồng tiền và buông thả theo dục vọng thấp hèn đã đẩy gia đình “mẫu mực” ấy vào một bước ngoặt với những dấu hiệu rạn nứt, đổ vỡ khi xuất hiện một số thành viên nổi loạn muốn tung hê tất cả, phủ định sạch trơn mọi chuẩn mực đạo đức truyền thống.

Cừ vốn là kẻ “trong người đã có sẵn cái mầm hư hỏng”. Mọi lời khuyên bảo, dạy dỗ của ba mẹ đối với Cừ chỉ là hành động “đạo đức giả”. Trong thâm tâm, Cừ “coi đạo đức là con số không vô nghĩa”, nên dù bị chửi mắng, đánh đập, doạ nạt đủ điều Cừ vẫn chứng nào tật nấy. Đi bộ đội, Cừ luôn viết thư về nhà kêu khổ để “tróc” cho được nhiều tiền của ba mẹ. Cừ lại coi việc hệ trọng “trăm năm” chỉ là “chuyện sinh hoạt vặt vãnh”. Hơn thế, sau khi để lại cho một cô gái nhẹ dạ hai đứa con, Cừ rũ bỏ trách nhiệm làm chồng, làm cha rồi rủ rê một người đàn bà khác trốn chồng cùng mình vượt biên. Chỉ khi đến được “miền đất hứa” thì Cừ mới tỉnh ngộ và nhận ra rằng “làm kẻ nô lệ dẫu có đeo đầy vàng thì cũng vẫn nhục”, và “con đã đánh mất cái quý giá lắm! Mỗi người chỉ có thể thuộc về một dân tộc nhất định, từ trong tâm hồn. Con người sống có hai nhu cầu vật chất và tinh thần. Phá vỡ đạo đức thì gặp ngay hung bạo. Khinh rẻ giá trị tinh thần thì đời sống trống rỗng, hoang tàn… Con đã oán giận một cái gì đó, cay cú một cái gì đó. Rồi lại ước ao một cái gì đó. Bây giờ thì vỡ mộng, phản tỉnh với cái ước ao, tiếc nuối cái đã oán giận, cay cú”. Như người đi vào đường hầm, càng vào sâu càng bế tắc, Cừ đã chọn cái chết nơi đất khách quê người để chuộc lỗi lầm của mình.

Cừ là nhân vật chỉ hiện lên gián tiếp thông qua lời kể của các thành viên trong gia đình và qua nội dung bức thư tuyệt mệnh anh để lại, còn Lý là nhân vật được Ma Văn Kháng khắc hoạ rất đậm nét trong tác phẩm. Đây là nhân vật phức tạp, có cá tính, có đời sống nội tâm phong phú. Có lúc đôn hậu đáng yêu, có lúc đanh đá tàn nhẫn. Trong những năm chiến tranh, chị đã từng trực tự vệ chiến đấu, tải đạn tiếp lương dưới mưa bom lửa đạn của kẻ thù cho các trận địa pháo, nghẹn ngào tỉ mẩn nhặt nhạnh xương thịt đồng đội hy sinh. Tần tảo thay chồng nuôi dạy con cái, gánh vác công việc gia đình, chị chung thuỷ chờ chồng, kính trọng, tôn thờ bố mẹ chồng. Nhưng sau chiến tranh, sống trong thời bình, khi nhu cầu của con người ngày càng cao thì Lý có nhiều thay đổi. Chị thích giàu sang, phú quý, ăn ngon, mặc đẹp, quay cuồng theo tiếng gọi của vật chất. Chị khát khao đồng tiền bất chấp đạo lý, lẽ phải. Tiền trở thành triết lý sống của Lý: “Tiền! Tiền! Tiền là trên hết!”, “Đời chỉ là một chữ T thôi”.

Mồ côi bố mẹ từ lúc còn rất nhỏ, tuổi thơ chị không được sống trong mái ấm gia đình, lớn lên lại không được cắp sách đến trường như bao đứa trẻ khác và sớm bị tiêm nhiễm lối sống xô bồ nơi thị thành. Ngay từ những năm đầu lên thành phố sống với chú, Lý đã quen với “những câu đùa cớt nhả, những lời ướm hỏi bóng gió và cái lối tán tỉnh sàm sỡ của đám trai hàng phố”. Tuổi mười lăm, Lý “đã thinh thích một cái nhìn đưa đẩy, một cái vuốt má nghịch ngợm của một người đàn ông”. Nhà Lý ở cạnh nhà vợ chồng viên quan ba tàu bay. Hàng ngày chứng kiến cảnh cô vợ anh ta thướt tha trong bộ áo dài hoa hiên đi ra chợ, tìm đến những hàng bún, hàng phở ngon nổi tiếng, rồi nửa buổi trở về với một làn đầy thức ăn, niềm ao ước cuộc sống lứa đôi, cuộc sống đủ đầy, xa hoa, hưởng lạc thức dậy mãnh liệt nơi chị. Chị sớm tìm được thần tượng cho mình. Vì vậy, khi Đông xuất hiện trong bộ quân phục sĩ quan, sao vàng lấp lánh trên mũ, khẩu súng ngắn K54 kênh kênh bên hông là “Lý cảm mến và chẳng bao lâu đã yêu tha thiết anh đại uý quân đội nhân dân Việt Nam nọ”. Yêu Đông, lấy Đông là Lý yêu và lấy một thần tượng, là biến cái mộng thành vợ một sĩ quan như nữ sinh Đồng Khánh vẫn hằng lưu giữ trong tâm trí thành hiện thực chứ thực ra Lý chưa hiểu gì về con người Đông. Tiếp đó, Đông đi chiến đấu biền biệt. Năm thì mười hoạ anh mới được sống cùng vợ trong dịp nghỉ phép hay ra Hà Nội công tác. Bởi vậy, thời gian họ sống với nhau vô cùng ít ỏi. Từ khi Đông trở về, “hình ảnh một ông trung tá trong nỗi nhớ, một ông trung tá được miêu tả hết sức trừu tượng nhưng đầy hãnh diện trước mọi người” ở chị không còn. Bây giờ Đông là xương thịt như mọi người, đã về hưu, tự coi mình đã hoàn thành nghĩa vụ, sống đơn giản, bằng lòng với cuộc sống buồn tẻ – điều đó đã làm cho Lý hoàn toàn vỡ mộng. Câu nói: “Không hiểu tại sao tôi lại lấy ông đấy, ông Đông ạ?” trở thành câu nói thường nhật mỗi khi chị không bằng lòng với chồng.

Lý vốn đẹp, bước vào tuổi hồi xuân, lại càng quyến rũ và hấp dẫn. Chị vẫn giữ nguyên vẻ tươi mát và duyên dáng như thuở nào. Nhiều người vẫn trầm trồ, ngưỡng vọng chị. Bản thân Lý cũng cảm nhận và tự hào về vẻ đẹp hình thể của mình. Sáng sáng, chị thường đứng trước gương ngắm tấm thân ngọc ngà, trẻ trung gần như khỏa thân của mình. Nhưng Đông thì thờ ơ trước vẻ đẹp và những đòi hỏi chính đáng của chị, không còn là chỗ dựa tinh thần để chị có thể xẻ chia hay bộc bạch nỗi niềm tâm sự. Trong khi đó, bên chị không hiếm những kẻ nhăm nhăm lợi dụng cái phần tối tăm mà thực sự chị cũng có thừa. Sự năng động, tháo vát của chị được lãnh đạo xí nghiệp sử dụng triệt để. Có điều, họ chỉ chú ý vào kết quả mà không quan tâm đến hành vi và cách thức làm việc để đạt được kết quả đó nên Lý không phân biệt được tốt – xấu, trắng – đen, phải – trái. Mặt khác, họ tâng bốc chị quá mức. Nào là “cô là con người năng động nhất”, nào là “chị ấy là con dao pha của chúng tôi”. Vì thế, Lý nhầm tưởng những hành động “đi cửa sau” của mình là thức thời, năng động phù hợp với xu thế thời đại. Từ đó, Lý có cái ảo tưởng mình có vai trò rất quan trọng “chị ngây ngất vì vinh quang, lòng tràn ngập cái cảm giác mình là nhân vật nổi trội nhất, tài năng nhất, có quyền hành cao nhất lúc này”. Hơn thế, hàng ngày chị trực tiếp làm việc với tay trưởng phòng vật tư thoái hoá, lẳng lơ, lắm tiền nhiều mưu kế. Hắn sử dụng mọi mánh khoé xảo quyệt để quyến rũ chị. Sự chiều nịnh khéo léo cùng sự sành điệu trong các ngón ăn chơi của hắn đã đẩy Lý từ chỗ không làm chủ được cám dỗ vật chất đến sa ngã, hư hỏng. Tuy nhiên, những lúc tỉnh táo chị hoàn toàn phân biệt được đâu là phải đâu là trái, đâu là tốt đâu là xấu. Chị nhận ra chân tướng, thủ đoạn của tay trưởng phòng và vạch trần bản chất xấu xa của anh ta. Chị cảm thấy ghê tởm anh ta, ghê tởm cả chính mình và thề sẽ không bao giờ gặp lại anh ta nữa. Lúc ấy, chỉ cần có người tin cậy nâng đỡ, an ủi, sẻ chia là chị vượt qua được sự chông chênh. Nhưng người chồng vô lo đến mức vô tâm của chị đã không làm được việc ấy. Vì thế, tâm trạng Lý xáo động: có nhiều chiều lang thang vô định như kẻ mắc bệnh trầm cảm, có những buổi vẩn vơ một mình trên ghế đá và những đêm dài ngột ngạt, trơ trọi trong buồng vắng. Cuối cùng, Lý phó mặc cho “những cảm giác đòi thoả mãn và bất chấp” sai khiến, dẫn chị đến chỗ buông xuôi, trượt ngã.

Bản tính Lý là người thích quyền hành, thèm sai khiến người khác, tự coi mình là quan trọng, là hơn người. Từ ngày có Phượng chuyển về, vai trò của Lý trong gia đình giảm dần. Đau đớn hơn, sự tin cậy của mọi người đối với chị cũng không được như xưa. Luận gián tiếp nói lên điều đó khi ca ngợi chị Hoài là người chín chắn, trung thực, “hoàn toàn tin cậy được”. Cần khéo léo từ chối sự mối mai của chị khi thông báo tháng sau cưới vợ. Còn ông Bằng, trong chúc thư, trao sổ tiết kiệm cho Phượng chứ không phải cho chị, mặc dù chị là cô dâu trưởng và từ trước đến nay mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do bàn tay chị xếp đặt. Thêm nữa, Luận vốn là người hiểu và kính phục chị, luôn ca ngợi chị tài giỏi, tháo vát, chân tình… nhưng bây giờ công khai lên án chị gay gắt, gọi chị là “quỷ sa tăng”. Niềm tin cậy, chỗ bám víu của chị trong gia đình không còn. Chị trở nên cô độc, trơ trọi. Gia đình giờ đây đâu còn là nơi an lạc của chị! Mọi người trong nhà giờ đâu còn chở che, nâng đỡ, vỗ về, an ủi chị! Bao nhiêu bực dọc, bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu ấm ức bấy lâu chất chứa trong lòng chị tuôn ra. Chị như kẻ cùng đường, xù lông, xù cánh chống trả: “Đối đáp bốp chát, ăn miếng trả miếng, chửi vỗ mặt nhau đanh đá hàng tôm hàng cá, thơn thớt dựng chuyện, vu khống đê tiện một cách nanh ác”. Những nét thô kệch, phàm tục do thiếu văn hoá căn bản trong Lý bộc phát ra hết, vì thế lúc này con người chị chỉ rặt những nét trâng tráo, vô liêm sĩ, bản năng và hoang dã.

Lý cùng đường. Mọi sợi dây ràng buộc chị với chồng và các thành viên trong gia đình đứt tung. Chị buông thả theo lối sống phóng túng, sa đoạ, trác táng với tay trưởng phòng vật tư thoái hoá biến chất. Sự hư hỏng của Lý diễn ra dần dần theo một quá trình buông thả mà không được sự hướng dẫn, giáo dục của tập thể, người thân. Chị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn hoá vừa thiếu một người tri kỷ, định hướng nâng đỡ về tinh thần, lại chịu tác động mạnh mẽ từ những mặt trái của kinh tế thị trường, khiến chị không cưỡng lại được sự cám dỗ vật chất, lối sống vị kỷ, thực dụng, bản năng. Nhà văn luôn dõi theo những bước chân của Lý. Ông sung sướng, hả hê khi Lý là một nàng dâu xinh đẹp, đảm đang, một viên chức mẫn cán. Ông hóa thân vào ông Bằng ca ngợi Lý hiếu thảo; hóa thân vào Luận khen Lý tài giỏi, chân tình; mượn lời Phượng, lời ông thiếu tá khen Lý trẻ đẹp; dùng lời ông giám đốc xí nghiệp đánh giá Lý năng nổ, tháo vát. Ngược lại khi Lý sa ngã, hư hỏng, ông đau đớn, xót xa. Nỗi đau xót có khi nhà văn âm thầm nuốt vào lòng nhưng phần nhiều được bột phát thành những lời phê phán khá quyết liệt. Giận Lý, trách Lý chủ yếu là để trách cứ những thành viên trong gia đình đã không nâng đỡ, che chở và định hướng cho Lý; là trách tập thể, xã hội không giáo dục, uốn nắn kịp thời những sai phạm của chị mà lại bỏ mặc và cuối cùng bỏ rơi chị. Chính vì thế, nhà văn đã chọn giải pháp để chị hối hận, nhận ra sai lầm và xin trở lại mái nhà xưa. Mọi người trong gia đình cũng nhận thức được trách nhiệm của mình về sự sa ngã của chị và mở rộng cánh cửa đón chị trở về.

Côi cút giữa cảnh đời là tác phẩm tâm đắc nhất của Ma Văn Kháng. Ở đây không chỉ có sự ngợi ca mà còn có cả sự phê phán, chê trách. Ông chê trách nhưng không oán giận những con người yếu đuối có những phút mềm lòng đã dẫn tới sa ngã, sai lầm như Thuỵ, Quỳnh. Thuỵ là một người thiếu phụ cạn nghĩ. Chị loá mắt trước sự giàu sang của gã lái xe tải tay đeo đầy vàng, túi áo lúc nào cũng ních chặt những cuộn giấy bạc. Những món quà nhỏ nhoi như chiếc áo, cái quần, lọ nước hoa cùng những lời mơn trớn đường mật của hắn đã làm cho chị xao xuyến, tin theo, để rồi từ bỏ gia đình đầm ấm hạnh phúc, bỏ lại mẹ già con côi, dứt áo chạy theo người tình, chạy theo ảo vọng hão huyền. Hình ảnh người phụ nữ bỏ ngoài tai tiếng kêu đứt ruột, não nùng của người mẹ chồng: “Thuỵ ơi, thật không ai như con đâu, con ạ!” để “quay ngoắt đi, cắm cúi bước, rồi dúm chân chạy gằn…” thật xót xa, buồn tủi cho nhân tình thế thái, cho tình mẫu tử thiêng liêng! Hành động “theo trai” của chị không những trút gánh nặng lên vai người mẹ chồng còm cõi ngoài sáu mươi phải nuôi thêm đứa cháu nhỏ bằng đồng lương hưu ít ỏi của mình mà còn hằn lên một vết thương lòng không bao giờ phai cho bé Duy lúc mới lên năm tuổi. Bởi vậy, nỗi đau còn mẹ, còn cha mà bỗng chốc trở nên côi cút giữa dòng đời luôn ám ảnh trong tâm hồn thơ dại của Duy.

Mặt khác, trong Côi cút giữa cảnh đời, Ma Văn Kháng cũng mạnh mẽ phê phán lối sống trọng vật chất, tiền bạc đã huỷ hoại đạo lý, tình người. Gia đình chị Đại Bàng là nạn nhân của lối sống đó. Chồng công tác ở nước ngoài, thường xuyên gửi hàng về nên ba mẹ con chị có cuộc sống sung sướng, đủ đầy. Nhưng tiền của càng nhiều, con gái chị càng hư hỏng. Chúng chanh chua, lếu láo, suốt ngày chí choé cãi nhau, tranh giành quần áo, quà cáp bố gửi về. Chúng ăn nói thô lỗ, tục tĩu và có những cử chỉ thiếu văn hoá với người lớn. Chúng càng ngày càng lộng hành, coi thường mẹ, công khai tuyên bố: “Mẹ nên nhớ rằng tất cả của cải nhà này là của bố tôi gửi về nhé. Mẹ có cái gì? Mẹ chỉ có cái ba lô rách đem từ công trường về khi lấy bố tôi thôi nhé!”. Cuối cùng tiền của như có “hồn ma bóng quỷ” đã gây hỗn loạn, phá tan gia đình chị. Hai đứa con hùa với bố tách chị “ra khỏi cộng đồng”, đẩy chị xuống địa vị đứa ở, người giúp việc trong nhà. Đến lúc bố chúng bị kỷ luật, đuổi việc không còn tiền hàng chu cấp, hai chị em coi nhau như kẻ thù, thường xuyên lao vào nhau cắn xé, đập phá. Chúng đã bị của cải làm cho phát điên phát rồ nên tự tay châm lửa đốt nhà. Đứng trước đống tro tàn mà hai đứa con gái vừa say máu tham thiêu huỷ, chị Đại Bàng đã ân hận thốt lên cay đắng: “chỉ vì con nhẹ dạ, cả tin, tưởng rằng nó tốt tiền, tốt bụng. Nào ngờ, nghề xế kiếm tiền như rác, làm nó tự cao tự đại, ta đây…hu hu!”.

Tự (Đám cưới không có giấy giá thú), Khiêm (Ngược dòng nước lũ) đều là những trí thức chân chính, có tâm huyết với công việc lại trở thành nạn nhân của thế giới đảo điên, đạo lý suy đồi. Ngoài xã hội, họ bị những kẻ có chức, có quyền khinh rẻ ví như “cái sinh thực khí” của thằng đàn ông. Về nhà họ bị vợ chê bai, dè bỉu “ngu hèn”, “vô tích sự”… Cuộc hôn nhân giữa Tự và Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú) chỉ là sự kết hợp giữa hai thể xác, còn về mặt tinh thần họ hoàn toàn trái ngược nhau. Tự giàu lòng tự trọng, đề cao giá trị tinh thần, đạo lý, không màng tiền tài, danh vọng. Ngược lại, Xuyến coi trọng vật chất. Người đàn bà “tính nết và nhan sắc thô vụng”, “giàu thực tiễn nhưng biến động dồi dào” này luôn thèm khát cuộc sống đủ đầy, ái ân nồng thắm. Trái tim Xuyến “đê mê” lúc bàn tay chạm vào những đồng tiền trong “bát họ”. Sắm được cái tủ ly, mặt Xuyến tươi như hoa, rạng ngời “bừng men nắng”, thảng thốt, rạo rực, náo nức ngắm nghía như thiếu nữ vỡ oà trước sắc đẹp non tươi của mình. Trong đời sống ái tình, Xuyến luôn là người chủ động và đòi hỏi. Những lúc ấy, “cô là con thú (…). Cô yêu thích nhục dục. Chuyện chăn gối cô không bao giờ chán”. Hai người vốn không chung nhịp đập, dòng nghĩ lại gặp lúc xã hội xuống cấp, kinh tế khó khăn, đồng lương giáo viên “chết đói” không đủ chi tiêu đã làm cho gia đình họ vốn có dấu hiệu rạn nứt càng thêm chao đảo. Xuyến tự ý bỏ nghề, hùm vốn buôn bán với Quỳnh “đĩ đực, ma cô”, thiết lập quan hệ hội đoàn với những thương nhân chuyên nghiệp, rắp tâm liên minh với bọn phe phẩy lao vào những phi vụ kinh doanh, đổi chác. Ước mơ vật chất, coi đồng tiền là mục đích tối thượng đã đẩy Xuyến vào cơn lốc kiếm tiền bất chấp đạo lí. Bị mờ mắt vì những đồng tiền kiếm được, chị đã sa ngã và trượt dài vào lối sống nhầy nhụa vô đạo đức. Cuộc ngoại tình của chị với Quỳnh chỉ là sự hoàn tất bản hợp đồng với quỷ sứ. Khi đã mất hết liêm sỉ, lòng tự trọng thì trách nhiệm với gia đình, chồng con… ở Xuyến trở thành vô nghĩa. Xuyến đã biến cái gác xép – “thánh đường tôn nghiêm, tháp ngà cao quý, câu lạc bộ văn hoá, phân xưởng rèn đúc ý chí của Tự”- thành tổ quỷ dâm dục. Xuyến ngang nhiên trâng tráo ngoại tình trước mặt chồng và thẳng thừng tuyên bố: “Từ nay ông đi đâu thì đi! Của anh anh mang. Của nàng nàng xách. Ông đừng bén mảng đến cái nhà này nữa!”.

Cũng như Tự, Khiêm trong Ngược dòng nước lũ cũng rơi vào bi kịch tình duyên do không có sự hoà hợp giữa vợ chồng. Họ có quá nhiều khác biệt. Nếu Khiêm là “kẻ kỹ tính và tuyệt đối hoá các giá trị của đời sống tinh thần” thì Thoa – vợ anh – là “người đàn bà thông tục. Chị đáo để, thô giản, hay tự ái, ham đua chen giành giật liều lĩnh và hiếu dâm”. Năm năm chồng đi xa, ở nhà ba lần phải phá thai. Do đó, khi Khiêm trở về, quan hệ vợ chồng gia đình họ “đã chênh vênh bên bờ của sự tan vỡ”. Chị là một kẻ trần tục, chẳng cần nghĩ ngợi cao siêu mà chỉ ước ao chồng mình “là một thằng đàn ông dồi dào sức lực và kiếm được nhiều tiền”. Chị luôn ấm ức vì Khiêm không thoả mãn được những đòi hỏi đó. Khi dục vọng không được lấp đầy, chị thèm khát liên tục, lao vào những cuộc tình bất chính. Chị không chỉ lén lút quan hệ nơi gầm cầu, bãi chợ mà còn trắng trợn, trơ trẽn cùng tên Mô lang băm “tán tỉnh nhau, hôn hít mơn trớn và dở trò mèo chuột với nhau” trước mặt Khiêm khi anh đang ốm liệt giường. Thoa chủ yếu sống bằng bản năng và ái dục. Người đọc kinh tởm, phỉ nhổ và hãi hùng xa lánh chị bao nhiêu thì lại xót xa, thương cảm cho Khiêm khi phải gắn đời mình với loại quỷ dâm dục để ôm mối sầu thảm trước tấn bi kịch của gia đình bấy nhiêu.

Đọc Đám cưới không có giấy giá thúNgược dòng nước lũ, chúng ta càng thấm thía: hôn nhân – gia đình phải gắn liền với tình yêu trong sáng. Hôn nhân không tình yêu thì gia đình trở thành địa ngục. Sớm hay muộn, bí mật hay công khai những nạn nhân trong gia đình ấy cũng sẽ tìm đến một cuộc tình khác. Có thể họ ngoại tình để trao đổi, kiếm chác tiền – tình (Xuyến với Quỳnh “đĩ đục, ma cô”) hay để thoả mãn dục tính (Thoa với tay nhiếp ảnh méo mồm và y tá Mô). Cũng có thể họ gặp nhau vì tình yêu, vì tìm được “nửa còn lại” mà mình chưa có. Vì vậy, ngoại tình đối với họ là sự dâng hiến, ban tặng sự trinh trắng cho nhau, là cung bậc cao nhất của tình yêu đôi lứa. Khác với Xuyến, với Thoa, Hoan đến với Khiêm là để khẳng định quyền sống, quyền yêu đương của mình. Chị “yêu Khiêm say đắm, thậm chí có thể dùng cái chết để bày tỏ, nhưng nàng không phải là hạng người cuồng si trâng tráo”. Tình yêu của Khiêm và Hoan không vụ lợi, không nhục dục. Họ yêu nhau vì hiểu nhau, cần nhau; vì hai con tim đập cùng một nhịp, hai tâm hồn cùng hướng tới cái đẹp, cái thiện, cái hoàn hảo…Vì vậy, dẫu chịu bao phong ba bão tố, gặp bao thác ghềnh dữ dội họ vẫn cầm chắc tay lái, giữ trọn niềm tin quyết “ngược dòng nước lũ” để tìm kiếm, gắn kết với nhau. Đều là tình yêu ngoài hôn nhân, trái với đạo đức truyền thống nhưng người đọc có hai cách nhìn khác nhau về mối quan hệ của Khiêm – Hoan và Thoa – Mô. Nếu như mối tình Khiêm – Hoan làm cho chúng ta trân trọng, cảm thông, khích lệ thì quan hệ xác thịt của Thoa – Mô gây cho chúng ta sự tởm lợm, uất ức.

Dưới tác động của đồng tiền và sự xuống cấp của xã hội, các mối quan hệ ruột thịt trong gia đình trở nên ngả nghiêng, chao đảo. Ma Văn Kháng đã đưa những câu chuyện tưởng như vặt vãnh về chuyện anh em, cô cháu; chuyện lục đục mẹ chồng – nàng dâu, vợ chồng vênh lệch… vào truyện ngắn của mình. Ông không chỉ kể lại mà còn phân tích, luận bàn khá hùng hồn về sự suy thoái của đạo đức xã hội. Bởi vậy, truyện ngắn của Ma Văn Kháng thường không giới hạn ở mức độ miêu tả mà “mang chiều sâu của một triết lí nhân bản về đời sống. Nội dung xã hội của truyện ngắn Ma Văn Kháng bao giờ cũng vượt ra ngoài ý nghĩa của đề tài và chất liệu. Cho nên, kể những chuyện eo xèo thường ngày, nhà văn muốn làm nổi bật sự lạc điệu, trật khớp đang diễn ra ở mọi ngõ ngách, mỗi góc “sân nhỏ” nhằm khơi dậy ở ta ấn tượng về sự phi lí, bất ổn trong quan hệ đời sống của con người hôm nay” [15, tr. 68].

Các truyện ngắn Mảnh đạn, Trung du, chiều mưa buồn, Heo may gió lộng là những câu chuyện đau lòng về anh em, chị em thời mở cửa. Truyện Mảnh đạn để lại trong lòng người đọc một niềm day dứt khôn nguôi. Một câu hỏi luôn lởn vởn trong đầu ta: Tự bị tâm thần do mảnh đạn kẻ thù găm vào đầu hay vì niềm tin bị đánh cắp? Tự đâu có ngờ người anh trai mà mình tin cậy, gửi gắm người yêu nhờ chăm sóc, bảo vệ lại là kẻ đểu giả, ti tiện. Nhân lúc em mình đang đổ xương máu ngoài mặt trận, anh ta đã cuỗm người yêu của em làm vợ. Vì thế, nỗi đau bị lừa dối, bị phản bội luôn chất chứa trong trái tim rỉ máu của Tự. Đau đớn hơn, người phải chứng kiến cảnh đó là bà mẹ. Bà không thể hình dung nổi con trai đầu của mình lại có thể nhẫn tâm tuôn ra những lời vô nhân tâm: “Sao hồi đi bộ đội, nó không chết mẹ nó đi cho xong” và lạnh lùng nhờ công an tống em mình vào tù. Tự bị điên do vết thương chiến tranh để lại, nhưng bà mẹ cuối truyện cũng mất trí điên loạn thì sao? Ngẫm ra, sự ích kỷ, nhẫn tâm của lòng người là những mảnh đạn vô hình đang làm cho con người trở nên tâm thần, điên loạn!

Trung du, chiều mưa buồn là một nỗi buồn vô tận về tình cảm chị em. Bà Nhàn khi trở nên giàu sang, phú quý đã bỏ rơi người em một thời cùng mình đồng cam cộng khổ, tha phương cầu thực, làm thuê làm mướn. Bà bỏ ngoài tai lời khẩn cầu tha thiết được gặp chị lần cuối trước lúc từ giã cõi đời của em gái. Bà dửng dưng vô cảm trước cái chết của em và thốt lên những lời độc địa: “Tiên sư nó chứ, chết như thế cũng sướng…”. Sự vô học, thói hãnh tiến đã đánh mất tình người, đã biến bà Nhàn thành một kẻ ích kỉ, một con vật biết nói không biết nghĩ suy, một trái tim xơ cứng không còn rung động. Những gì bà Nhàn làm đã đánh mất truyền thống đạo lý “chị ngã em nâng”, “chị em gái như trái cau non” vốn đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi người dân Việt Nam. Đồng thời nó như một lời cảnh báo về sự suy thoái, cạn kiệt của tình người.

Heo may gió lộng phản ánh mối quan hệ chị chồng – em dâu. Ở đây, sự nghèo đói, thiếu thốn là nguyên nhân gây nên sự lủng củng, bất hoà. Chị Thảo bị chồng đánh đập, ruồng bỏ. Cay đắng, tủi nhục, bơ vơ… đến gia đình người em mong tìm chốn nương thân, sống nốt những ngày còn lại của cuộc đời khổ ải. Nhưng ngờ đâu sự khánh kiệt, ốm đau, tiều tuỵ của chị lại làm cho cô em dâu khó chịu, đá thúng đụng nia, nhiếc móc, đay nghiến và cuối cùng dựng chuyện vu khống để đuổi chị ra khỏi nhà. Thị đã nói thẳng với chồng: “Chả có gì quá đáng sất. Tôi không thể chịu được nữa. Bà ấy ở đây thì tôi đi! Tôi đi! Để hai chị em ông sống với nhau!”. Buồn thay cho tình người nghiêng ngả! Đáng lẽ những người ruột thịt phải thương yêu, đùm bọc, vỗ về, an ủi nhau lúc khó khăn hoạn nạn; thế mà… “sự cạnh tranh của đời sống khốc liệt đến mức cả những con người hiền lành, thân thuộc với nhau cũng không thoát thói quen thường trực là phải xoi mói lẫn nhau…”.

Tình mẹ con, cha con là tình cảm thiêng liêng, sâu nặng. Ngay từ lúc còn nằm trên nôi, mỗi chúng ta đều ghi lòng tạc dạ lời dạy của cổ nhân: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…” qua lời ru của mẹ, của bà. Nhưng những tình cảm thiêng liêng, sâu nặng đó đang có nguy cơ thui chột ở một bộ phận lớp trẻ tha hoá nhân cách. Các truyện ngắn: Mẹ già, Nhà nhiều tầng, Ngày chủ nhật mưa ngâu, Thầy của chúng em… phản ánh thực trạng đó. Bà cụ Vi (Mẹ già) là hiện thân của tình mẫu tử bất diệt, thương yêu con hết mực. Lúc nhỏ: ủ mớn, vỗ về; lớn lên: nuôi dưỡng;  trưởng thành: trông đợi, kiêu hãnh, tự hào. Nhưng dòng sông bao giờ cũng chảy về xuôi. Tình mẹ là nguồn nước vô tận từ trong nguồn chảy ra. Còn con cái thơm thảo lắm chỉ là những vòng xoáy, chỉ quẩn lại chút ít ở những khúc ngoặt rồi lại êm ả hay ào ạt xuôi dòng. Cừ – con trai út của cụ Vi – là một dòng lũ cuồn cuộn chảy, gây cho mẹ mình biết bao đau đớn, ê chề. Lúc nhỏ ngổ ngáo, táo tợn. Từ quân ngũ trở về luôn quát tháo, nạt nộ, đập phá và thường xuyên “nổi cơn khùng dại” khiến cho bà cụ phải bỏ nhà, ngồi khóc thầm đầu ngõ. Cuối cùng Cừ chạy sang nước tư bản. Cừ hành hạ mẹ mình cả thể xác lẫn tinh thần, gây cho mẹ một nỗi đau đớn, thất vọng và ê chề, nhục nhã lúc chiều tà, xế bóng. Ở phương trời xa, Cừ đâu có biết vì hành động phản bội Tổ quốc của mình mà mẹ anh mỗi lần ra phố “mặt úp xuống chẳng dám nhìn ai”, “lưng ngày một còng như phải thồ cái gánh nặng của thói đời bạc bẽo”.

An (Ngày chủ nhật mưa ngâu) khi thành đạt đã quên lãng người cô từng hy sinh tuổi trẻ, nhan sắc làm kiếp “khâu đầm” cho Tây để nuôi nấng, chăm bẵm An từ lúc còn sài đẹn, sởi ban, ho gà. Quên người chiều chiều bế anh ra trước cổng làng đón bố. Càng giàu sang An càng xa cách, “có đến ba bốn chục năm An không đến căn nhà này, không gặp mặt người cô ruột”. Nhưng là người rộng lượng khoan dung, người cô luôn nhớ cháu và ước mong trước lúc lâm chung được cháu đến thăm. Những tiếng hờ của ông chú: “Ối, em Chung ơi! Em chết oan uổng. Em sống oan ức. Cả đời em khổ. Nhưng cháu An nó đã đến thăm em đây! Thế là đủ rồi, em đừng buồn khổ nữa” như muối xát vào lòng ta về nỗi đau nhân thế! Chẳng lẽ một trí thức như An mà bạc bẽo đến thế sao? Tuy trước linh cửu của cô “An khóc nghẹn ngào”, nhưng thử hỏi tiếng khóc nhất thời trong không khí tang thương ấy có đánh đổi được mấy mươi năm ngóng đợi đến mỏi mòn đứa cháu về thăm mình của cô An không?

Bi kịch của Thầy Tụng (Thầy của chúng em) cũng không kém phần chua xót. Ngoài xã hội, thầy bị bọn vô học, xấu xa, đê tiện hãm hại. Ở nhà, thầy bị vợ con ruồng rẫy. Thằng con cả, trong cơn say, đã chỉ mặt thầy rủa: “Sống càng dai càng làm khổ con cái. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước, ông có tội với chúng tôi, ông có biết không?”. Tất nhiên là thầy không biết. Bao thế hệ học trò của thầy không thể biết. Chẳng lẽ người thầy: “Niên học nào cũng dạy thật tốt môn dạy, số tiết được phân (…). Tiết dạy nào cũng chu đáo, tận tình hết mực. Đứng trên bục giảng, nghiêm cẩn và say sưa toả sáng. Mười lăm năm, tự đốt mình thành ngọn đuốc sáng cho mình, cho trò soi. Tuyệt không có một vi phạm nhỏ kỷ luật nghề nghiệp và nhân cách…” lại là người có tội sao? Vì thế, một câu hỏi chất chứa bao nỗi căm hờn về nhân tình thế thái đảo điên, về đạo đức suy đồi cứ ngân vang mãi trong đầu thầy Tụng và mỗi chúng ta: Mảnh đất nào đã sinh ra người con như thế! Xã hội nào đã tạo ra loại công dân như thế!

Quan hệ mẹ chồng – nàng dâu “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” là vấn đề đã được phản ánh từ lâu trong văn học. Có điều, trong các sáng tác của Tự lực văn đoàn như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Nửa chừng xuân… địa vị chủ gia đình thuộc về mẹ chồng, còn nàng dâu chỉ là kiếp tôi tớ, bị đè đầu cưỡi cổ. Ngược lại, trong văn học đương đại địa vị này có nhiều đổi thay, nhất là khi mẹ chồng chịu cảnh ở chung với con cháu và nàng dâu là kẻ nắm “tay hòm chìa khoá”. Các truyện Bồ nông ở biển, Một chốn nương thân, Phép lạ thường ngày của Ma Văn Kháng đề cập đến mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu thời hiện đại.

Bồ nông ở biển luôn diễn cảnh mẹ chồng – nàng dâu “gây sự để mạt sát, thoá mạ nhau không vì nguyên nhân gì cả” đến nỗi Lương phải tự đặt ra nhiều câu hỏi mà không thể tìm ra lời giải đáp. Chẳng lẽ nghĩa tình chỉ được nuôi dưỡng bằng nghèo khổ? Chẳng lẽ mức sống lại tỉ lệ nghịch với tình yêu thương?

Cũng có khi gia đình rạn nứt, mẹ chồng nàng dâu bất hoà, vợ chồng lủng củng vì họ không tìm đâu ra một chốn nương thân (Một chốn nương thân) hay do con cái nheo nhóc, công việc bộn bề, cuộc sống túng bấn, sức khoẻ hao gầy (Phép lạ thường ngày). Ở đây không có kẻ thắng người thua, không có sự ganh đua hơn thiệt, bởi thế khi đổ vỡ chia lìa thì những người trong cuộc đều rơi vào trạng thái đớn đau, ăn năn, ân hận. Trong Phép lạ thường ngày, sau khi bà cụ bỏ đi, Nghĩa chạy ngược chạy xuôi tìm mẹ, cháu Hiếu thao thức cả đêm không ngủ, Đào ân hận, nghẹn ngào nói rời rạc, đứt quãng với chồng trong hơi thở yếu ớt: “Anh xin lỗi bà hộ em. Em không muốn thế. Không bao giờ em muốn thế. Mà sao bỗng dưng em lại thế. Thật tình không bao giờ em muốn thế…”.

Vợ chồng là hạt nhân của gia đình. Vợ chồng hòa thuận, trong ấm ngoài êm là niềm khao khát ngàn đời nay của con người. Nhiều câu ca dao, tục ngữ đã ca ngợi tình yêu và hạnh phúc gia đình: “Gái thương chồng đương đông buổi chợ/ Trai thương vợ nắng quái chiều hôm”; “ Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”… Song tình yêu không phải bao giờ cũng là hoa thơm quả ngọt. Gia đình không phải bao giờ cũng là bến bờ hạnh phúc cho con người neo đậu. Ma Văn Kháng trong nhiều tác phẩm của mình đã mô tả những bất hạnh ở “mức độ sâu thẳm” nhất của tấn bi kịch gia đình. Khi triết luận về quan hệ vợ chồng và nỗi đau bị phản bội, ông viết: “Vợ chồng là cái quan hệ trao xương gởi thịt cho nhau. Là sự dính liền, cộng sinh của hai nửa cơ thể. Là sự gửi gắm thể xác và linh hồn cho nhau. Là tồn tại mang tính người đặc sắc. Nỗi đau này khác tất cả mọi nỗi đau. Nỗi đau này động tới nơi tận cùng sâu thẳm là trái tim (…). Vợ chồng là sự sở hữu lẫn nhau. Không thể chia bôi, trước hết là ở phần thể xác. Thể xác cũng phải thiêng liêng như linh hồn. Hành động tính giao là bữa tiệc giữa hai người dọn riêng cho hai người” [4, tr. 298 – 299].

Ma Văn Kháng đã phê phán chủ nghĩa vật chất, lối sống thực dụng đã len lỏi vào đời sống vợ chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình. Quê nội phê phán người chồng phụ bạc, mải mê với cuộc sống đủ đầy, sang trọng nơi thị thành mà bỏ quên tình nghĩa vợ chồng, cha con… nơi thôn dã. Phú đã ruồng rẫy, bỏ rơi người vợ đảm đang, ân nghĩa và đứa con thơ dại để chạy theo người đàn bà trẻ đẹp. Ti tiện hơn, anh ta về quê không phải để thăm mẹ già, người thân mà để đòi lại cái nhẫn hai chỉ vàng “sắm cho mạ cái Thía hồi mới cưới”.

Cũng có khi những dục vọng bất tận không có điểm dừng của con người đã phá hoại gia đình. Đó có thể là lòng ái dục hay lòng tham quyền cao chức trọng. Thu Hoài trong Anh cả tôi, người sung sướng luôn bị những cơn khát tình dục hành hạ. Chị lao vào hết cuộc tình này đến cuộc tình khác mà vẫn không thoả mãn cơn khát. Mỗi khi chiếm lĩnh được cái mình muốn chị lại thấy trước mắt hiện ra những bến bờ khác hấp dẫn hơn. Cái bí nhiệm của tình dục vẫn không ngừng “vẫy gọi” Thu Hoài – người phụ nữ thích cái tuyệt đối và lấy thoả mãn bản thân làm mục đích tối thượng của cuộc sống. Bởi thế, chị sẵn sàng từ giã mái nhà hạnh phúc với người chồng giàu sang, lịch lãm nhưng đã “xập xệ” vì tuổi tác để chạy theo gã trai lơ nghèo hèn, “chuyên thói ăn bám, lợi dụng đến trơ trẽn” và ít hơn cả chục tuổi để đưa chị vào “trường cực lạc” trong các cuộc giao hoan. Nhà văn lên tiếng chế giễu, lên án thói dâm bôn và lối sống hành lạc kiểu dã thú của đôi “gian phu dâm phụ” bằng những lời lẽ nặng nề: “Gã trai đương sức đã chán chê lũ gái non ngứa nghề, háo danh, cần một ả đàn bà từng trải, thông thạo đường tình dục. (…). Mái già, đực non, cuộc giao phối còn đâu là những phút tẩm hương lãng mạn khi xưa… Chị vợ tru tréo. Thằng chồng gào thét…”. Thật đúng là “mạt cưa mướp đắng”, tởm lợm đến kinh người.

Trong Đất mầu, Ma Văn Kháng nói đến hai loại dục vọng. Ở Dự là những khao khát, rạo rực, ham muốn tình dục của người phụ nữ trẻ phải sống xa chồng, phải sống với một người chồng “dửng dưng như kẻ bị hoạn!”. Cô đã dùng lao động cơ bắp để hạ hoả, triệt tiêu những cơn bùng phát nhiệt hứng bất tận. Nhưng cái “ôm ghì táo tợn”, “bàn tay sục sạo khuôn ngực” dù là của kẻ xa lạ, của kẻ cưỡng hiếp luôn tiềm ẩn trong người cô. Nó luôn ám ảnh, trỗi dậy đánh thức cảm xúc nhục dục mạnh bạo ẩn chứa trong cô. Vì thế, tuy có bị sa ngã trong thời gian đằng đẵng xa chồng nhưng tác giả không trách móc, lên án mà có phần cảm thông cho cô. Ngược lại, Phùng luôn chạy theo tiếng gọi của dục vọng quyền lực. Y bỏ mẹ già, vợ trẻ xung phong đi B để tìm cơ hội tiến thân. Trở về, y quên ăn, quên gia đình, quên cả đời sống vợ chồng, suốt ngày đêm mưu tính vụ lợi. Y chỉ “nung nấu một cao vọng duy nhất là giành lấy được chức vị phó giám đốc nọ bằng mọi giá”. Và mỉa mai thay, cái chức vị cả cuộc đời theo đuổi tưởng như ở trong tầm tay thì y không còn cơ hội để thừa hưởng. Cái chết của Phùng, gia đình tan vỡ là lời cảnh báo cho những kẻ “đam mê đến khốn khổ trên con đường kiếm chác danh vọng”. Xét đến cùng bi kịch ấy cũng do hôn nhân không tình yêu, do sự khác biệt quá lớn về dục vọng của vợ chồng họ.

2.2. Bi kịch gia đình do lũ người ô trọc ngoài xã hội gây nên

Bọn tham quan, lũ sâu mọt mang danh Đảng, chính quyền không những làm cho xã hội đảo điên, đất nước trì trệ, đời sống nhân dân tối tăm, cơ cực… mà chúng còn là những tội nhân không nhỏ phá vỡ hạnh phúc gia đình của biết bao người dân lương thiện. Nhiều tác phẩm của Ma Văn Kháng đã lên tiếng vạch trần thủ đoạn xảo quyệt của những ông “quan cách mạng” dốt nát, vô học nhưng nhiều mưu mô, quỷ kế. Hiệu trưởng Cẩm, bí thư Dương (Đám cưới không có giấy giá thú) là những người lãnh đạo cao nhất ở trường học – người thay mặt Đảng, Nhà nước chăm lo cho sự nghiệp trồng người, đào tạo nhân tài cho đất nước – lại là những kẻ dốt nát, chuyên quyền, tráo trở, đểu giả. Chúng làm ô danh người thầy, gây nên thái độ khinh bỉ, bất kính ở học sinh. Chính họ là những kẻ “đổ dầu vào lửa” phá hoại gia đình Tự một cách thâm hiểm. Họ mượn tay Xuyến đánh ghen. Họ tung những tin vu khống trong lúc Tự đang đau nặng nhằm hạ gục anh: “Lá thư thứ ba không thể ngờ lại trở thành cái cớ nguỵ tạo cho cuộc vỗ nợ ái ân ra cái điều vô cùng đoan chính của Xuyến. Lại cũng là dịp may trời sai quỷ khiến để Cẩm thực hiện trò ném đá dấu tay, thanh toán một kẻ thù nguy hiểm của y…”.

Quanh, Phù, Khoái, Liệu (Ngược dòng nước lũ) đã ngấm ngầm xúi dục Thoa  đánh ghen, rạch mặt Hoan nhưng bên ngoài giả vờ hốt hoảng và nạt nộ nhân viên: “Chết thật! Tý Hợi, sao lại cho bà Thoa và bọn con trai kia vào cơ quan! Hừ, trả thù người ta vì người ta kí tên kiến nghị cách chức mình như thế thì ông Khiêm hèn thật! Hèn quá!” nhằm cùng một lúc trúng hai mục đích là vừa hãm hại Khiêm, Hoan vừa tạo nên sự ngờ vực, phá hoại tình yêu của họ.

Chủ tịch Luông, trưởng phòng Hứng (Côi cút giữa cảnh đời) nhân danh chính quyền, cơ quan thu hồi, mà thực chất là chiếm nhà người khác làm tài sản riêng cho mình. Chúng đã chiếm gần hết diện tích căn phòng, chỉ trừ lại cho ba bà cháu sáu mét vuông. Chúng thường xuyên nhiễu nhương, doạ nạt, gây rối nhằm đẩy bà cháu Duy ra khu chợ mới thành lập để độc chiếm toàn bộ căn nhà. Ông Luông không chỉ doạ nạt, ức hiếp bà Duy đủ điều mà còn dùng quyền lực không công nhận quyền sống cho bé Thảm, bắt giáo viên đối xử bất công với bé Duy khiến em bị cô giáo và bạn bè “làm nhục một cách man rợ”, đến nỗi mỗi lần đến lớp Duy cảm thấy như bị “hành hạ dưới địa ngục âm ty”. Đê tiện hơn, lão còn ăn chặn tiền gửi, lấy trộm thư từ, vu khống gia đình bà có nguồn gốc Tàu, được bọn gián điệp trá hình trợ cấp tiền bạc… nhằm mưu hại và triệt con đường sống của ba bà cháu.

Thật là trớ trêu và đau lòng khi những kẻ đại diện cho chính quyền, đại diện cho lực lượng ưu tú nhất của giai cấp vô sản lại căn dặn nhau: “Phải khôn khéo một tý với mụ Bôn-sê-vích ở bên cạnh này nhé. Đáo để lắm! Toà áo đỏ, áo đen đế quốc mụ cũng không sợ đâu”. Hoá ra, người công nhân một lòng trung thành với lý tưởng của đảng cộng sản chân chính (Bôn-sê-vích), đã từng vào tù ra tội, kiên trung bất khuất trước kẻ thù lại trở thành đối tượng “hình sự” nguy hiểm của các “quan cách mạng”?

Nếu thủ đoạn thâm hiểm của các vị lãnh đạo biến chất trong Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ chỉ là những giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước đã gần đầy thì lũ quan tham nhũng, đê tiện trong Chó Bi, đời lưu lạc lại là tác nhân chính làm tan vỡ gia đình ông Thuần.

Chồng giám đốc tài hoa, tháo vát, yêu vợ thương con hết mực. Vợ trí thức trẻ, xinh tươi, đằm thắm. Hai cậu con trai thông minh, học giỏi. Tất cả sum vầy dưới một căn nhà xinh xắn, mộng mơ có “An lạc viên” trước cửa để thả hồn yên tĩnh sau những phút nghĩ suy cực nhọc cho công việc của một xí nghiệp kinh doanh thời mở cửa. Gia đình ấy tưởng sẽ hạnh phúc, bình yên mãi mãi. Nào ngờ, những cải cách táo bạo của người giám đốc năng động đã đụng đến quyền lợi của bọn sâu mọt. Chúng kết bè kết cánh, dựng chuyện, vu oan theo kiểu “đánh đòn hội chợ” đẩy ông vào vòng tù tội. Rồi gây sự đẩy nốt người con đầu của ông vào ngục nhằm chiếm đoạt người vợ xinh tươi đang phơi phới sắc xuân. Từ “quan” phường Viễn đến “quan” tỉnh Mệnh bày mọi trò ve vãn, mua chuộc, hứa hẹn và dùng vũ lực rắp tâm biến chị thành của riêng, vật sở hữu nhằm thoả mãn những cơn khát dục bản năng. Chúng vô cùng thâm độc khi tung tin hoả mù, làm xói mòn lòng tin, gây hoang mang nghi kỵ lẫn nhau giữa những người thân trong gia đình để chia tách, xé nát ngôi nhà hạnh phúc. Vợ nghi chồng bội bạc. Chồng ngỡ vợ hai lòng.

Cái gì đã làm tan vỡ gia đình? Điều gì đã làm xói mòn lòng tin ở những con người cương nghị? Đó là đám sâu mọt đang nhung nhúc từng đàn, từng lũ trong xã hội. Chúng có thể là ông cán bộ to trong bộ máy công quyền hay tay chủ tịch phường tận cơ sở. Chúng có thể là vị chức sắc trong nhà máy, công ty hay viên sĩ quan bảo vệ pháp luật. Chúng nghèo về tư duy, học vấn nhưng giàu thủ đoạn hãm hại đồng loại. Khi viết về loại người này, ngòi bút Ma Văn Kháng đã lách sâu vào bản chất đồi bại của chúng. Ông không tiếc lời phỉ nhổ, mạt sát chúng. Ông hướng người đọc vào niềm tin và lẽ phải. Vì vậy, độc giả dù phải đối mặt với sự bất công, cay đắng vẫn không cảm thấy bi quan.

Nhiều truyện ngắn của Ma Văn Kháng như: Mẹ già, Một chốn nương thân, Tóc huyền màu bạc trắng, Một vầng nắng nhỏ, Tháng bảy ở chùa làng, Bến bờ, Thầy của chúng em… đã cho thấy nguyên nhân bi kịch gia đình không chỉ xuất phát từ trong nội bộ gia đình mà còn có nguyên nhân từ hoàn cảnh xã hội, từ những người “cầm cân nẩy mực”. Ông Thại (Tóc huyền màu bạc trắng) chỉ vì có khuôn mặt hao hao giống tên cai tù mà phải trải qua hai mươi năm tù đày. Người yêu của ông ngậm ngùi cắt tóc đi tu. Đến lúc “được vạ má sưng”, minh oan vô tội thì tóc huyền đã bạc trắng. Truyện phê phán mạnh mẽ thói thờ ơ, vô trách nhiệm của những kẻ thừa hành trong bộ máy công quyền, từng một thời ấu trĩ cho mọi lời nói của lãnh đạo cao cấp là chân lý, là “lời vàng ý ngọc” đã phá hoại tình yêu và quyền sống của con người. Gia đình Huấn (Một chốn nương thân) bất hoà lủng củng, vợ chồng trở thành hai người xa lạ, vật vờ như cái bóng… chủ yếu do bọn tham quan sâu mọt không tạo cho họ một chốn dung thân. Bằng việc đối lập giữa cái “giá như” với cái thực tại, nhà văn thể hiện tiếng nói thương cảm cho số phận cơ cực, quẫn bách của những công chức thành thị trong cuộc sống sôi động thời mở cửa, chuộng vật chất, thiếu tình người.

Mạch truyện tố cáo, phản kháng của Ma Văn Kháng đã cất lên tiếng nói thâm trầm của nhà văn trước thực tại. Giọng văn của người kể chuyện thường lấn lướt giọng của nhân vật hành động. Nhà văn không chỉ kể, tả mà còn bình luận, triết lý về nhân tình thế thái, về tình người, tình đời, về số phận mong manh của cá nhân, gia đình trong thời buổi kinh tế khó khăn, tình người phai nhạt. Giọng triết luận của nhà văn vừa sâu sắc vừa da diết, chẳng hạn khi nói về nhu cầu ở của con người, ông viết: “Nhu cầu sơ thuỷ của con người là ăn, ở. Ăn thì khối người đã viết tới cả vạn trang rồi. Còn ở? Chỗ ở, một chốn nương thân, kể từ con thú cũng phải có. Ổ rơm, hang, động, hốc cây, bụi rậm là của con thú. Còn con người, đó là một mái nhà che nắng che mưa. Đó là nơi hình thành gia đình, gia tộc, nơi nuôi dưỡng các thế hệ, nơi di dưỡng tình cảm, phẩm cách con người. Và Huấn biết điều lắm. Huấn có ao ước điều gì quá lớn lao đâu. Nhưng một nơi trú ngụ, mong muốn tối thiểu như thế mà sao cả một công cuộc nỗ lực cật sức vẫn không có nổi ư, hỡi trời?” [9, tr. 348].

2.3. Bi kịch gia đình do tính thủ cựu, kém thích ứng, thiếu bản lĩnh của một số thành viên trong gia đình đem lại

Đất nước thời mở cửa, xã hội có nhiều xáo trộn đổi thay. Mọi thể chế và chuẩn mực xã hội không còn giữ nguyên như trước. Có những quan niệm, thước đo hôm qua còn là chân lý thì nay trở nên lỗi thời, lạc hậu. Là tế bào của xã hội, gia đình không thể không đổi thay. Trong nhiều tác phẩm viết về vấn đề gia đình, Ma Văn Kháng đã “đề cập tới hai vấn đề lớn: truyền thống văn hoá dân tộc và truyền thống nếp sống của gia đình Việt Nam cùng sự đổi mới và thích ứng của nó trong xã hội mới” [16, tr. 285].

Sự xáo trộn dữ dội như một quy luật tất yếu của xã hội trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường đã ảnh hưởng đến mọi gia đình Việt Nam. Trong Mùa lá rụng trong vườn, Ma Văn Kháng đã dùng hình ảnh ẩn dụ mùa lá rụng để nói lên qui luật đó. Mọi loài cây trong vườn vào mùa thay lá đều biến đổi. Chúng trút bỏ những chiếc lá vàng, thay vào đó là những chiếc lá non tơ mơn mởn. Nhưng những chiếc lá mới ấy cũng mọc lên từ những cành mà trước đó không lâu nó đã rũ bỏ không thương tiếc những chiếc lá cũ. Bởi thế, Mùa lá rụng trong vườn còn nêu lên yêu cầu đổi mới gia đình truyền thống cho phù hợp với xã hội mới. Truyền thống văn hoá dân tộc và truyền thống gia đình Việt Nam cùng sự đổi mới và thích ứng của nó trong thời đại mới là những vấn đề cơ bản mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Khăng khăng giữ lại tất cả những gì của ngày xưa không phải là chuyện hợp thời, nhưng thoát ly truyền thống, phá vỡ mọi nề nếp nhất định sẽ dẫn tới bi kịch.

Mùa lá rụng trong vườn là hồi chuông cảnh tỉnh những người có tư tưởng thủ cựu, cố duy trì, níu kéo kiểu gia đình truyền thống. Trong tác phẩm, ông Bằng là người đại diện cho lớp người đó. Ông cố gắng duy trì cái nề nếp cổ xưa, với hàng trăm điều nhỏ nhặt nhằm xây dựng gia đình hoà thuận, trên kính dưới nhường, trọng nghĩa khinh tài, hướng về sự phát triển đạo đức tinh thần. Đối với ông, danh dự gia đình là trên hết. Ông luôn khuyên dạy các con mình phải giữ gìn danh dự: “Phải giữ gìn các con ạ. Giữ gìn từ những cái nho nhỏ vì từ những cái nho nhỏ cộng lại, hợp thành văn hoá, nền tảng đạo lý đấy”. Vì danh dự gia đình mà ông đánh Cừ – người con trai mới mười ba tuổi – một trận đòn “thiếu sống thừa chết”, rồi thẳng thừng đuổi con ra khỏi nhà, mặc dầu không biết đích xác Cừ có phải là người lấy cắp đồng hồ của khách hay không. Ông muốn dựa vào một nền tảng tinh thần vững bền để chống lại tất cả cái xấu đang tàn phá cuộc sống. Trong những dịp chuyện trò với con cái hay dịp cúng gia tiên vào cuối năm, ông luôn nhắc đến những kỷ niệm đẹp, những đứa con ngoan, thành đạt mà cố lảng tránh Cừ – người con trai bất trị đã bỏ cơ quan trốn đi biệt tích – nhưng lòng ông luôn nổi sóng. Ông chống chọi với hoàn cảnh, với sự thật phũ phàng, thực ra là ông tự dối lòng mình. Trong con người ông luôn có cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông dùng lý trí để khước từ Cừ nhưng tình cha con trong ông không bao giờ phai nhạt. Hình ảnh Cừ luôn in đậm trong trái tim ông. Bởi vậy, khi nghe Đông nói: “Theo con, ba nên có một động tác: làm một cái đơn đưa tới uỷ ban khước từ nó, không chịu trách nhiệm về nó”, ông đã bị tăng huyết áp, mặt tối sầm lại. Hoặc khi cầm bức thư Cừ từ nước ngoài gửi về tay ông run rẩy và không dám mở ra xem. Khi biết Cừ vỡ mộng về “miền đất hứa” và dùng cái chết để sửa chữa lỗi lầm, ông đã ngã gục. Ông Bằng ngã gục không hoàn toàn vì việc Cừ phản bội Tổ quốc chạy ra nước ngoài làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thanh danh gia đình. Ông vốn quá hiểu con mình. Cái chết thương tâm, sự hối hận muộn màng của người con trai nơi đất khách quê người cùng việc nó nói ra sự thật về cách giáo dục câu nệ, cứng nhắc, hà khắc, lỗi thời của chính ông đã làm ông gục ngã! Chính vì vậy, trước lúc từ giã cõi đời, ông đã hối hận, nhận ra sai lầm của mình. Ông dặn các con: “Thằng Cừ, lá rụng về cội, thương xót vong linh nó”.

Cũng vì thanh danh gia đình mà ông hy sinh cả tình cảm riêng tư. Vợ chết, ông mất thăng bằng. Cả nhà toàn là người lớn. Ban ngày họ đi làm. Hầu như ông phải sống thui thủi một mình ở nhà. Láng giềng có bà Lang Chí nhân từ, hiền dịu và nhiều khổ đau. Đời bà là một chuỗi những mất mát thiệt thòi. Bà không được hưởng cái hạnh phúc thiêng liêng và giản dị như rất nhiều người đàn bà khác. Nay bà thường xuyên đến chữa mắt và săn sóc ông. Họ là những con người cô đơn đang khao khát một tình bạn khi tuổi xế tàn. Trong lần cùng bà hành hương về cội nguồn vào đầu xuân, ông đã tìm được sự yên ổn. Những tưởng bà sẽ là người bạn tri kỷ, tâm giao của ông, nhưng ông lại dùng lý trí cưỡng lại khát vọng cháy bỏng và chân thật đó. Đây là những suy nghĩ và hành động mang nặng tư tưởng cổ hủ, lỗi thời. Trong con người ông đầy mâu thuẫn. Bề ngoài ông tỏ ra vững vàng, kiên định nhưng bên trong ông rất hoang mang. Ông lo sợ khôn nguôi về một sự đổ vỡ trong gia đình.

Sự chênh vênh, chao đảo, bất ổn trong tâm hồn ông Bằng cũng phản ánh phần nào thái độ chênh vênh, phân vân của ngòi bút Ma Văn Kháng. Một mặt, nhà văn lờ mờ cảm nhận được có cái gì đó không ổn, không hợp thời của kiểu gia đình xưa nhưng mặt khác ông lại luyến tiếc những nề nếp, những tôn ti trật tự tạo nên truyền thống gia đình người Việt. Do đó, trái tim nhà văn đập cùng nhịp với trái tim ông Bằng nhưng lý trí lại mách bảo ông điều ngược lại. Quả thật, phải xét thời điểm ra đời của tác phẩm (viết xong năm 1982, trước Đổi mới bốn năm), chúng ta mới thấy hết tính dự báo của nó; mới nâng niu, trân trọng những cách tân táo bạo của Ma Văn Kháng.

Đông (Mùa lá rụng trong vườn) là một trung tá trải qua hai cuộc kháng chiến, dũng cảm trong chiến đấu; Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) là thầy giáo chân chính, đầy trách nhiệm với nghề nghiệp nhưng trong tư cách gia đình họ lại là những người đàn ông thiếu bản lĩnh. Họ chưa làm tròn trách nhiệm trụ cột gia đình, chưa trở thành chỗ dựa tin cậy về mặt tinh thần cho vợ con lúc xã hội đầy phức tạp trong thời kì quá độ chuyển sang cơ chế thị trường.

Lý ngưỡng mộ Đông với tư cách là người sĩ quan tài ba mưu lược, điều binh khiển tướng ngoài mặt trận; tháo vát, năng động trong xã hội; định hướng, quyết đoán trong gia đình; gần gũi, yêu thương, vỗ về, sẻ chia vợ con lúc chông chênh, chao đảo. Nhưng Đông, sau chiến tranh trở về lại là con người đơn giản và thụ động. Mỗi khi gặp khó khăn chỉ biết gãi đầu bứt tóc rồi thốt lên “ừ, khó nhỉ”, mà không chịu nghĩ suy tìm cách tháo gỡ, khắc phục. Mặt khác, mang tâm lý của người được quyền nghỉ ngơi, Đông vô lo, mãn nguyện và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Xưa nay, anh chỉ quen thụ hưởng truyền thống tốt đẹp vốn có của gia đình mà sao nhãng trách nhiệm xây dựng, lo toan cho cuộc sống đó. Đông thờ ơ trước vẻ đẹp cùng những đòi hỏi ái ân của vợ. Đông xa cách, vô tình, không có ước mơ hoài bão. Vì thế, giờ đây anh không còn là thần tượng “làm hãnh diện cho vợ” ở ngoài xã hội và trong cuộc sống gia đình cũng không phải là người “hướng dẫn, phụ trách tinh thần của vợ”. Lý hư hỏng, sa ngã, gia đình tan vỡ, một phần trách nhiệm không nhỏ thuộc về Đông!

Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) cũng dần dần đánh mất bản lĩnh của mình. Ở trường, Tự phó mặc, buông xuôi trước những hành động lộng quyền của bí thư Dương, “ngoảnh mặt ra sân” trước hành vi vi phạm quy chế thi của hiệu trưởng Cẩm và bỏ mặc ông Thống bị vu oan một cách trắng trợn. Ở nhà, Tự không làm tròn trách nhiệm người chồng, người cha, không làm nổi việc nâng đỡ chỉ dẫn tinh thần cho vợ lúc bị kẻ xấu lôi kéo, rủ rê. Khi gia đình có dấu hiệu rạn nứt, tan vỡ anh lại buông xuôi, đầu hàng số phận, rũ bỏ mọi trách nhiệm, trốn chạy gia đình đến ở nhờ văn phòng trường học. Trước những hành động ngang ngược, quá quắt của Xuyến, anh chẳng có phản ứng nào mà âm thầm nuốt nỗi đau bị phản bội vào nơi tận cùng sâu thẳm của trái tim mình. Anh phải “tảng lờ, giả câm, giả điếc” trước thái độ “cả vú lấp miệng em” của Xuyến. Chúng ta không ngờ một thầy giáo giỏi, có bản lĩnh, giàu lòng tự trọng đã dám đánh cậu con trai mất dạy của thị uỷ Lại năm nào giữa lớp học để bảo vệ danh dự, bảo vệ chân lí lại có lúc bị động, rụt rè, ớn hèn, chấp nhận đầu hàng thảm hại đến như vậy trong tình yêu – gia đình? Do đó, gia đình Tự tan vỡ, không chỉ do Xuyến sa ngã bởi mục đích kiếm tiền và không thoả mãn trong đời sống vợ chồng mà một phần do Tự. Vì thế, việc Dương Minh phê phán Tự là người “thiếu bản lĩnh”, như “con ốc sên thu mình trong vỏ”, như “người lính bỏ trận địa”; “Trước những cao ngạo, quay quắt đến trắng trợn, thô thiển mất hết tình người của vợ, của tên hàng xóm anh đành chỉ im lặng, nằm bẹp trên cái tháp – ngà –  gác xép như không, một lời phản bác cũng không, một hành động nổi loạn cũng không” [2] không phải là không có lý.

Không chỉ ở tiểu thuyết mà ở nhiều truyện ngắn, Ma Văn Kháng cũng phê phán lối sống đơn giản, buông xuôi, đánh mất bản lĩnh của người chủ gia đình, tạo nên sự rạn nứt, đổ vỡ trong quan hệ vợ chồng. Mất điện, Cây bồ kết lá vàng, Suối mơ, Anh cả tôi, người sung sướng… là những truyện ngắn thuộc loại trên. Người anh cả (Anh cả tôi, người sung sướng) từng một thời khước từ quyền cao chức trọng để khẳng định bản ngã của mình khi tuyên bố: “Xin các anh hãy cho tôi được sống như một người bình thường”. Thế mà vài năm sau, ông trở thành một kẻ nhu nhược “quay mặt, chết lặng” khi chứng kiến “thằng ma cô trần truồng cùng vợ ông không mảnh vải che thân trên chiếc giường hạnh phúc của riêng vợ chồng ông”. Thậm chí sau đó, ông còn “tận tuỵ gánh cái gánh nặng nuôi một nữ diễn viên đang toan về già bao một gã trai lơ, để thoả dục tình… không một lời phàn nàn, ta thán, chứ đừng nói là dè bỉu, miệt thị”. Nhà văn không chỉ phê phán thói dâm bôn, lối sống hành lạc của đôi “gian phu dâm phụ” mà còn chế giễu tính ngu hèn của ông Chính khi mỉa mai đưa ra lời bình luận: “Đó là bước tiến nhảy vọt của mối quan hệ đàn ông – đàn bà, của tấm lòng cao cả hay bước lùi của nền văn minh trước sự buông thả vô lối, thói nhu nhược và đần độn”.

3. Những đề xuất về một hình mẫu mới cho gia đình Việt Nam hiện đại

3.1. Cá tính được tôn trọng

Thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người là đặc điểm nổi bật nhất của văn học Việt Nam sau 1975. Con người trong văn học Cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) là con người chính trị, con người tập thể mang tầm vóc thời đại, nhân danh cộng đồng, nhân danh lịch sử mà chiến đấu hy sinh cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa tươi đẹp. Văn học sau 1975, chất sử thi nhạt dần, quan niệm thế sự, đời tư về con người đậm dần lên, trở thành nét chủ đạo của diện mạo văn học. Con người chủ yếu được nhìn nhận ở bình diện đời tư, đời thường trong nhiều mối quan hệ với con người, gia đình, xã hội nên vấn đề cá tính, bản ngã được đề cao coi trọng [17].

Ma Văn Kháng không những là nhà văn luôn nâng niu, trân trọng những giá trị tinh thần truyền thống mà còn là nhà văn rất nhạy cảm với cái mới, ngay cả khi cái mới đang ở dạng mầm mống. Những sáng tác mang tính “tiền trạm” Đổi mới như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Ngày đẹp trời của Ma Văn Kháng đã chứa đựng nhiều dự báo sáng suốt. Hơn ba mươi năm qua, trên bình diện sáng tác, Ma Văn Kháng đã có những đổi mới mạnh mẽ trong tư duy nghệ thuật về con người. Ông đã tìm kiếm và đề xuất những chuẩn mực đạo đức, hành vi cho cuộc sống con người trong thời kỳ đất nước đầy biến động chuyển sang nền kinh tế thị trường.

Tôn trọng cá tính, quan tâm đến đời sống cá nhân của từng cá thể trong gia đình, trong xã hội là một dòng chảy xuyên suốt nhiều sáng tác của Ma Văn Kháng từ 1985 đến nay như Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ… Ở các tiểu thuyết này, nhà văn đã thể hiện vấn đề trên thông qua việc khắc hoạ tính cách nhân vật hoặc để cho nhân vật tư tưởng, nhân vật kể chuyện triết luận trực tiếp.

Thế giới nhân vật được nhà văn khắc hoạ tương đối đậm nét. Mỗi nhân vật có một lối sống riêng, cách nghĩ, cách ứng xử riêng. Chẳng hạn, ở Mùa lá rụng trong vườn, ông Bằng là người trọng đạo đức truyền thống. Ông chủ yếu sống với quá khứ tươi đẹp. Ông muốn “dựa vào một nền tảng tinh thần bền vững để chống lại cái xấu đang tàn phá cuộc sống”. Luận hiểu rộng biết nhiều, thích triết luận về cuộc sống, về con người, về các mối quan hệ xã hội nhưng anh chưa thật nhạy bén với cuộc sống mới. Lý là con người có cá tính mạnh mẽ, năng động, tháo vát, thích ứng nhanh với cuộc sống mới. Chị thích ăn ngon mặc đẹp. Chị có ước vọng về một cuộc sống cao sang, đủ đầy. Cừ là con người táo tợn, ngang tàng, vô chính phủ, thích làm những việc khác thường… Mỗi nhân vật có một cách sống riêng. Nhưng đáng tiếc các thành viên đứng đầu gia đình chưa làm tròn trách nhiệm chủ gia đình. Ông Bằng cứng nhắc trong việc giáo dục con cái, “khuôn” họ theo ý riêng của mình mà không quan tâm đến cá tính, ý nguyện của từng người. Khi Cừ không làm theo ý mình, ông mạt sát, đánh đập, xua đuổi… Vì vậy, việc Cừ hư hỏng có một phần trách nhiệm thuộc về việc ông không hiểu con, không tôn trọng cá tính của con và có cách đối xử bất công với Cừ. Lý cũng vậy, chị sa ngã, tha hoá không chỉ do chị bị lối sống hưởng lạc cám dỗ mà một phần do những người trong gia đình, đặc biệt là Đông – chồng chị – không hiểu chị, không thông cảm và chia sẻ, động viên an ủi chị; chưa trở thành chỗ dựa tinh thần cho chị vào những lúc chị gặp khó khăn, chông chênh chao đảo, lưỡng lự phân vân.

Tự – Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú), Khiêm – Thoa (Ngược dòng nước lũ) đều là những đôi vợ chồng có quan niệm sống, sở thích, đam mê… hoàn toàn trái ngược nhau. Họ không thông cảm và thể tất cho nhau nên gia đình đổ vỡ một phần không nhỏ xuất phát từ việc thiếu dân chủ, đối thoại giữa các thành viên trong gia đình.

Bằng việc đưa ra các mô hình gia đình khác nhau: gia đình hoà thuận, trong ấm ngoài êm do vợ chồng hiểu nhau, yêu thương giúp đỡ nhau (gia đình Luận – Phượng) và gia đình bất hạnh, đổ vỡ (gia đình Đông – Lý, gia đình Tự – Xuyến, gia đình Khiêm – Thoa), Ma Văn Kháng qua hình tượng nghệ thuật đã khẳng định: tôn trọng cá tính, đảm bảo quyền dân chủ của cá nhân là một chuẩn mực gia đình mà chúng ta cần quan tâm trong thời đại ngày nay.

Mặt khác, trong Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng đưa ra nhiều đoạn triết luận về cuộc sống cá nhân trong gia đình: “Phải chăm lo cho từng người. Cá tính mãi mãi tồn tại và đòi hỏi được quan tâm”; “Cuộc sống phức tạp nhưng phải sống thực với nó, vì nó. Nói cụ thể là phải có trách nhiệm với cả từng con người. Càng ngày cá thể càng nổi lên, đòi hỏi ta phải chăm sóc nó, nhất là bây giờ khi những yếu tố làm tha hoá con người còn có trong cuộc sống”.

Như vậy, bằng việc đề cao cá nhân, bản thể của con người, Ma Văn Kháng đã góp phần giúp cho văn học Việt Nam hiện đại đi đúng quỹ đạo của nền văn học nhân loại. Văn học thực sự là ngành khoa học về con người, vì con người.

3.2. Tình yêu – tình dục hài hòa cùng sự bao trùm của lòng nhân ái

Ước mơ tình yêu, hôn nhân hạnh phúc là khát vọng ngàn đời nay của con người. Trong văn học quá khứ của dân tộc ta đã có nhiều tác phẩm viết về tình cảm keo sơn gắn bó, chia ngọt sẻ bùi trong quan hệ vợ chồng. Vừa kế thừa truyền thống vừa có những cách tân táo bạo, Ma Văn Kháng đã đưa ra một số quan niệm mới mẻ trong quan hệ hôn nhân – gia đình. Với ông, chữ trinh kia “cũng có ba bảy đường”. Có khi hành động “thất thân”, “phản bội” lại trở nên cao thượng. Người phụ nữ đẹp trong Nợ đời đã “vượt qua mọi khổ nhục và xấu hổ” để cứu sự nghiệp cho chồng. Hành động của chị không làm cho chúng ta khinh bỉ mà trái lại chúng ta càng cảm phục, kính trọng. Chị chẳng kém gì Phăng tin bán mình cứu con trong Những người khốn khổ của V. Hugo. Chính Ma Văn Kháng, thông qua người kể chuyện phải ngạc nhiên đến cao độ trước sức mạnh huyền bí của tình yêu: “Chưa bao giờ tôi ở trong nỗi sợ hãi khủng khiếp đến như thế. Trong tình yêu phụ nữ quyết liệt hơn nam giới. Vẫn biết vậy nhưng quả là chưa bao giờ tôi được chứng kiến một tâm tình thiếu phụ thống thiết niềm hỉ xả như thế với sự nghiệp, với người đàn ông mà chị gắn bó”.

Quan hệ vợ chồng không chỉ có lí trí và tình cảm, tinh thần và vật chất, cao thượng và khoan dung mà còn có cả tâm hồn và thể xác, tình yêu và tình dục. Vấn đề tình dục một thời bị người ta kiêng kị, dị ứng, tưởng như dùng từ đó là tội lỗi, “bôi tro trát trấu” con người. Nhưng các nhà văn thời nay coi đời sống tình dục như cơm ăn, nước uống. Một khi bị ức chế ngoài đời, nó sẽ chạy vào mơ, ám ảnh thân chủ đến tội nghiệp. Đó là lẽ tự nhiên của âm dương hoà hợp tạo nên sự sống trường cửu, hồn nhiên. “Ở ta, Ma Văn Kháng là nhà văn đầu tiên viết được những truyện ngắn khoái hoạt hả hê nhất nói về lòng ái dục của con người”, nó như “mạch sống thầm thào mà dào dạt, hăm hở giữa cõi nhân sinh” [15, tr. 69]. Ông không né tránh mà công khai mô tả, triết luận về đời sống tình dục, về những phút giao hoà bất tận trong ái ân. Theo ông: “Xinh đẹp và đa dục trong sinh hoạt vợ chồng, không nhất thiết đó là biểu hiện của một người đàn bà đáo để, cay nghiệt” [10, tr. 366]. Nhiều tác phẩm của Ma Văn Kháng đã coi tình dục là một phần không thể thiếu trong quan hệ vợ chồng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến bi kịch gia đình trong nhiều sáng tác của Ma Văn Kháng là những người phụ nữ đầy bản năng, bước vào độ tuổi chín nục, tràn đầy, căng ứ sức lực và khát thèm ái dục như Lý (Mùa lá rụng trong vườn), Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú), Thoa (Ngược dòng nước lũ), Dự (Đất mầu)… không thoả mãn tình dục trong đời sống vợ chồng. Chồng họ hoặc thờ ơ, vô cảm (Đông), không đam mê ái dục (Tự, Khiêm) hoặc lo chạy theo ảo vọng quyền lực (Phùng) làm cho người vợ bị ức chế; cảm giác đòi hỏi luôn sùng sục, réo rắt. Trong Đám cưới không có giấy giá thú, vợ chồng Tự có lúc tưởng như vượt qua thời kỳ băng giá khi cả hai “chung một cảm giác của đất đai nẩy mầm, tù nhân được phóng thích, cơn đói được ăn, cơn khát được uống, chỗ thiếu được bù, nơi thừa được san, nợ nần được thanh khoản, nhu cầu được thoả mãn”. Nhưng buồn thay cuộc tình của họ không thực hiện được chức năng hoà giải vĩ đại mà tạo hoá ban cho, bởi  khi Xuyến vừa bước vào cơn đam mê “cho anh tha hồ đấy! Cho anh suốt đêm đấy!” thì Tự “lập tức rơi vào trạng thái thân xác phân ly rã rời nằm rũ rượi giống hệt một xác chết”.

Tình mẹ con sâu nặng, tình bà cháu thắm thiết là những tình cảm máu mủ, ruột thịt trong quan hệ gia đình đã được Ma Văn Kháng thể hiện rất thành công trong nhiều tác phẩm như… Mẹ và con, Mẹ già, Trái chín mùa thu, Côi cút giữa cảnh đời, Bà ngoại.

Bác sĩ Duyên (Mẹ và con) mười hai năm không chồng là ngàn thu vò võ. Tràn đầy, căng ứ từ tuổi 30 đến 42 của chị là quãng thời gian bất tận của sự chịu đựng, trăn trở và những cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Khi các con còn nhỏ, còn gắn bó mật thiết với mình, chị còn có việc để làm, còn có “cơ hội” quý báu để giết thời gian, khoả lấp khoảng trống vắng. Nhưng khi con cái bước vào tuổi trưởng thành, “nó đã tách ra khỏi chị, giờ nó ở ngoài chị, từ phía ấy nó đánh giá chị…” thì mối quan hệ giữa chị và con bỗng trở nên khó khăn, không còn những phút ríu ran trò chuyện. Những người mẹ bình thường cũng không tránh khỏi hụt hẫng khi phát hiện ra con cái mình (nhất là con gái) muốn có cuộc sống tự lập, huống hồ là chị – người đang chịu cảnh “nghiêng lệch” gia đình.

Tiếp đến là những cử chỉ, lời nói “giữ mẹ” của cô con gái: từ chối không đi xem ca nhạc vào tối thứ bảy với mẹ, xa gần nhắc chuyện bạn mình bỏ học vì mẹ nó lấy chồng; xa lánh, giận hờn khi chị về muộn trong ngày sinh nhật của nó, cuối cùng nhắc chuyện tìm mộ và làm giỗ bố…Tất cả những việc làm của Hoà – con chị – là không nhường mẹ cho bất kì ai.

Tuổi học sinh như trăng rằm vằng vặc, như dòng sông trong suốt, Hoà đâu hiểu một tháng mấy đêm trăng tròn, trăng sáng; một năm được mấy tháng nước sông trong vắt êm ả xuôi dòng. Vả lại, không có mặt trời thì trăng làm sao toả sáng, không có mưa ngàn thì dòng sông khô cạn. Mẹ Hoà đã thiếu vắng sự cân bằng từ lâu. Hoà đâu biết mẹ xin chuyển về Hà Nội không phải để được gần nhà mà thực chất là tìm cơ hội lấy chồng. Vì thế, chị Duyên đã phải thốt lên đau đớn khi bị đứa con gái và mẹ chồng ngăn cản: “Buồn thay tình yêu này lại cản trở tình yêu kia. Người thân yêu này lại cản trở người thân yêu kia. Và hạnh phúc không thể tìm lại được, một khi đã bị mất, có phải thế chăng?”.

Hoà ngày càng lớn khôn. Cháu dần hiểu được nỗi khát vọng yêu đương của người phụ nữ. Bà mẹ chồng ngấm đau nỗi cô đơn, trống vắng trong những năm tháng một mình vò võ nuôi con mà thương con dâu đơn chiếc. Họ đã “bật đèn xanh” cho tình yêu nén chặt trong lòng bấy lâu nay của chị được tung nhảy, bùng cháy, reo ca. Hai hàng nước mắt chảy tràn trên gò má chị khi nghe con gái xin lỗi là những giọt nước mắt sung sướng. Những tiếng khóc chị bật ra là những tiếng khóc hả hê sau bao ngày ấm ức. Con hiểu mẹ. Hiểu tận tâm can. Có niềm vui sướng nào bằng, niềm hạnh phúc nào bằng khi con hiểu lòng mẹ. Barie đã mở, cống đã thông, dòng thác ái tình bắt đầu cuồn cuộn chảy. Cơn khát của những cánh đồng khô cháy sẽ được đền bù sau mươi hai năm trông đợi!

Quan hệ bà cháu là quan hệ gần gũi và gắn bó trong gia đình. Ngay từ thuở lọt lòng các cháu đã được bà ú mớm, vỗ về đưa vào giấc ngủ tuổi thơ bằng những chuyện thần tiên kỳ thú hay điệu dân ca ngọt ngào. Trong văn học Việt Nam đã có nhiều hình tượng đẹp về người mẹ, người vợ đảm việc nước, giỏi việc nhà biểu trưng cho truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của người phụ nữ Việt Nam, nhưng còn thưa vắng hình tượng người bà. Do đó, có thể nói với Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng đã góp thêm cho văn học nước nhà hình tượng người bà độ lượng, khoan dung, ngoan cường, dũng cảm, hy sinh tất cả vì con cháu. Bà vừa là bà nội, bà ngoại vừa là mẹ, là cha yêu thương chăm sóc, nuôi dạy dẫn dắt các cháu vượt qua quãng đời “côi cút” đầy khổ ải.

Trong hoàn cảnh bình thường, việc bà nuôi dạy cháu thật đáng trân trọng nhưng ở đây bà dang tay đón nhận, gánh lên đôi vai gầy của mình hai đứa cháu – đứa lên năm, đứa vừa mới lọt lòng đỏ hỏn – trong điều kiện ngặt nghèo: thiếu thốn, đói khát, tù túng, ngột ngạt. Bà vừa phải bươn chải kiếm sống, nhịn ăn cho các cháu no, nhịn mặc cho các cháu ấm, vừa phải dang rộng “đôi cánh” che chở các cháu trước lũ diều hâu ác quỷ. Bà có một sức mạnh lớn lao, bà toát lên sự kiên nghị cứng cỏi, giàu sức chống trả. Chống trả bền bỉ để bảo vệ chân lý, lẽ phải, bảo vệ thiên lương. Cuộc đời hơn sáu mươi năm của bà là chuỗi ngày cơ khổ, đối phó triền miên với những mưu sâu, kế hiểm của lũ người lòng lang, dạ thú để bảo toàn sinh mệnh và phẩm giá mình, bảo vệ con cháu, bảo vệ danh dự cho chồng và dòng họ Lã có truyền thống trung kiên, bất khuất. Bà là một thuỷ thủ tài ba, dũng cảm dùng “chiếc chèo bằng sậy”, đưa “bè gỗ lim gia đình” lênh đênh mười năm trời giữa sóng to gió lớn cập bến an toàn. Bà “chính là nhân vật mà Ma Văn Kháng đã dồn tất cả bút lực để miêu tả, tạo nên một vẻ đẹp bề thế, sắc sảo, nhuần nhị hiếm có trong văn học thiếu nhi. Bà thật trần thế mà cũng đẹp như truyện cổ tích [8, tr. 7].

Các cháu cũng vô cùng yêu thương và ghi nhớ công ơn bà, coi bà như bà Tiên, bà Phật giáng trần che chở, cưu mang, bồng bế, dìu dắt mình vượt qua những cách trở, lừa lọc, phản trắc, bất công bằng tình yêu thương và phép màu nhiệm thần kỳ. Duy và Thảm muôn đời ghi nhớ công ơn bà. Các em gắn bó với bà bằng một “chiều sâu hiếm có”. Không chỉ là tình bà cháu ruột thịt thông thường mà như là mối quan hệ của “hai phần một cơ thể”. Vì thế, ước mơ của các em là được sống mãi bên bà và khi bà không còn nữa nhưng hình ảnh bà, công ơn trời bể của bà vẫn hằn sâu trong tâm trí của anh em Duy.

Côi cút giữa cảnh đời – “Cuốn sách đạt được sự hài hoà tuyệt diệu giữa chất liệu, ý đồ, nghệ thuật thể hiện đến không còn tơ vương nào của sự ngăn cách giữa ba khu vực đó” [14] – mang một tiếng nói mới, giúp hoàn thiện “bộ sưu tập” các sáng tác viết về đề tài gia đình trong văn học Việt Nam đương đại.

Quan niệm gia đình hạnh phúc là gia đình thuận vợ thuận chồng, kính trên nhường dưới, yêu thương đùm bọc lẫn nhau tuy đã trở thành truyền thống lâu đời của dân tộc ta nhưng Ma Văn Kháng không chỉ có kế thừa mà còn đưa ra nhiều nội dung mới phù hợp với xu thế hoà nhập, mở cửa của đất nước. Ông có cách nhìn thông thoáng, dân chủ và nhân văn hơn về các mối quan hệ trong gia đình.

3.3. Cuộc sống hạnh phúc trong giàu sang

Cơm no áo ấm là ước mơ bao đời nay của người dân đất Việt. Cái đói trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi, nó đã đi vào tâm linh và trang sách. Nó đã “ghì” những người trí thức có tâm huyết, có lương tâm như thầy giáo Thứ, nhà văn Hộ (trong Sống mòn, Đời thừa – Nam Cao) xuống “sát đất”, không cho họ thực hiện những ước mơ, hoài bão, sáng tạo lớn lao của mình.

Mục đích, lí tưởng của cách mạng nước ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, nhân dân ấm no hạnh phúc. Văn học cách mạng Việt Nam 1945 – 1975 vì mục đích giải phóng dân tộc, ít nói đến nhu cầu vật chất mà chủ yếu ca ngợi lý tưởng, ca ngợi đời sống tinh thần. Nhưng trong điều kiện thời bình, trong thời đất nước mở cửa thì nhu cầu về vật chất trở thành một nhu cầu tối quan trọng trong cuộc sống cá nhân, gia đình. Đã đến lúc quan niệm hạnh phúc “một túp lều tranh hai trái tim vàng” trở nên lỗi thời. Ngày nay, quan niệm hạnh phúc trở nên gần gũi, thiết thực hơn, đời hơn. Hạnh phúc không chỉ gắn với sự hoà điệu về tâm hồn mà còn gắn với cuộc sống vật chất đủ đầy.

Trong nhiều tác phẩm của mình, Ma Văn Kháng đã nói đến tình trạng cái nghèo khổ, thiếu thốn làm cho cuộc sống gia đình trở nên khủng hoảng. Lý (Mùa lá rụng trong vườn) Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú) là những người tần tảo, tất bật vì cuộc sống gia đình. Chỉ vì ước mơ có cuộc sống no đủ, sung sướng mà họ phải bươn chải, lao vào thương trường và sa ngã. Nhà văn phê phán chủ nghĩa vật chất, lối sống thực dụng chạy theo những ham muốn bản năng chà đạp lên mọi giá trị văn hoá truyền thống dân tộc của họ. Nhưng ông cũng cảm thông với bao lo toan vất vả cùng những ước mơ chính đáng của họ. Ông sẻ chia, đồng cảm với những quan niệm đúng đắn về giá trị vật chất của Lý: “Cái lí đâu lại khinh rẻ vật chất, coi thường vật chất” [11, tr. 255]; “Không có vật chất thì sống bằng cái gì? Làm người phải biết làm ra tiền, phải biết sinh lợi, biết làm kinh tế chứ” [11, tr. 264]. Ngay cả đối với Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú) – người đàn bà đơn giản, thô mộc, sinh ra từ bùn lầy, rơm rạ, nghèo khổ từ trong trứng, luôn ganh ghét, hậm hực bởi sự nghèo khó, quyết bằng mọi cách có cuộc sống giàu đủ, sung sướng – tác giả cũng có cái nhìn rất “nhân văn”: “Thèm khát vật chất, ước ao một đời sống no đủ, sung sướng mà vẫn bị lên án, mà bị miêu tả một cách giễu cợt, khinh rẻ thì thật là bất cận nhân tâm” .

Luận – Phượng (Mùa lá rụng trong vườn) là một cặp vợ chồng lý tưởng. Gia đình họ là một tiểu vũ trụ chứa đựng hai con người hiểu nhau, tôn trọng nhau, dìu dắt nhau vượt qua khó khăn, dựng xây lâu đài hạnh phúc. Phượng là sự “dịu dàng, êm ái, bản năng nhân từ, tinh tế, bền bỉ, sâu kín”, không mặc cảm về cái nghèo. Luận coi nhẹ vật chất, say mê theo đuổi sự làm giàu về trí tụê, tình cảm, đạo đức, “hướng hoàn toàn về vẻ đẹp tinh thần, vẻ đẹp bên trong”. Tưởng như họ đang sống trong “một bầu không khí vô trùng”. Thế nhưng vì chưa có việc làm ổn định, cuộc sống khó khăn, họ đành nuốt nỗi thương nhớ vào lòng, gửi đứa con thơ cho bà ngoại. Đặc biệt, vào thời điểm căng thẳng, giá cả thị trường leo thang từng ngày, lại phải gánh trách nhiệm lo toan cuộc sống cho cả gia đình và cưu mang thêm ba mẹ con vợ Cừ thì cái nghèo khó bắt đầu len vào cuộc đời họ. Phượng tiều tuỵ xanh xao, phải mặc quần áo vá đi làm. Đêm đêm chị thức khuya để đan áo thuê. Phải “giật gấu vá vai”, vay mượn bạn bè tiền bạc. Cuối cùng, đành bán chiếc nhẫn cưới – quà kỷ niệm hạnh phúc trăm năm của vợ chồng – cùng bộ áo vét duy nhất của Luận để thanh toán nợ nần. Nghèo khổ đã buộc họ phải tạm quên đi những khoảng thời gian giành cho “sự bồi bổ trí tuệ” để bươn chải cuộc sống gia đình.

Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) là một trí thức, “một kẻ sĩ đời nay” đam mê “ngụp lặn thoả chí trong cái đại dương mênh mông của nghề sư phạm và nghệ thuật ngôn từ”. Tự có thể chịu đựng được cái khổ cho bản thân. Anh gần như bỏ gần hết các nhu cầu vật chất tối thiểu của con người. Suốt ngày anh phải “trốn” trên gác xép để “có thể điềm nhiên đánh cái quần đùi vá lấy rúm ró, mặc cái áo bộ đội sã vai”. Nhưng vợ anh không phải loại người cam chịu như anh. Do đó, cái nghèo khổ luôn dằn vặt Tự. Anh đã phải ứa nước mắt bán đi những pho sách quí được bố để lại trong Tùng Thiện thư viện của mình. Anh phải đem ra chợ trời bán cả chiếc lốp xe đạp được phân phối. Nhưng số tiền ít ỏi trên làm sao đủ chu cấp cho cả gia đình trong hoàn cảnh “gạo châu củi quế”. Bi kịch gia đình Tự có nguyên nhân không nhỏ từ nghèo đói.

Nghèo khổ đã vây hãm ba bà cháu Duy (Côi cút giữa cảnh đời). Họ phải nhịn ăn, nhịn mặc, khai hoang vỡ đất trồng rau, trồng thuốc bán kiếm tiềm nuôi nhau. Nghèo đói buộc bà Duy bất đắc dĩ hàng ngày làm kẻ hành khất đưa bé Thảm đi bú chực. Cũng vì nghèo đói mà bà cháu bị bọn quyền quý, giàu có khinh rẻ, chửi bới; bị chị em Vàng Anh, Vành Khuyên hạ nhục. Bé Duy ngày đầu đến lớp đã lạc lõng giữa đám bạn bè giàu có do em ăn mặc rách rưới, không có đồ chơi, không có tiền và quà bánh mang theo.

Nghèo đói, chật chội, thiếu một mái nhà, một nơi trú ngụ mà Xuân (Một chốn nương thân) đã biến đổi hẳn tính tình. Từ một người phụ nữ xinh xắn, hiền hậu, một cô dâu thảo hiền, một người vợ đảm đang, tháo vát chị trở nên trầm cảm, câm lặng; sẵn sàng bốp chát, đay nghiến tuôn ra những lời tục tĩu, vô văn hoá, kiểu “hàng tôm hàng cá” ngoài chợ. Do đó, việc vợ chồng cãi cọ, xa lánh nhau, mẹ chồng nàng dâu bất hoà… chẳng lẽ không do nghèo khổ?

Viết về cái đói, cái nghèo và nỗi niềm day dứt của con người về nó, Ma Văn Kháng bày tỏ thái độ thông cảm sâu sắc với cuộc mưu sinh khó nhọc và đồng cảm với ước mơ về cuộc sống ấm no, sung túc của họ. Tuy trong những tác phẩm của ông chưa xuất hiện mô hình gia đình giàu có hạnh phúc nhưng bằng phương pháp phản đề nhà văn đã gửi đến độc giả một thông điệp: gia đình hạnh phúc là gia đình hoà hợp về đời sống tinh thần, đủ đầy về đời sống vật chất.

Kết luận

Ma Văn Kháng không phải là nhà văn đầu tiên và duy nhất viết về đề tài gia đình nhưng ông là người có công lớn trong việc đổi mới tư duy nghệ thuật về con người và đổi mới cách viết về gia đình theo khuynh hướng đạo đức, thế sự – khuynh hướng đưa văn xuôi nghệ thuật gần với cuộc sống đời tư của con người và “xoá bỏ khoảng cách sử thi” [1, tr. 75] trong văn học Việt Nam hiện đại sau 1975.

Cảm hứng phê phán là cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác về gia đình của Ma Văn Kháng. Ông vừa phê phán khuynh hướng bảo thủ khư khư ôm lấy tất cả mọi nề nếp gia đình truyền thống vừa phê phán khuynh hướng chạy theo lối sống phương Tây, chà đạp đạo lý, phủ định truyền thống. Nhưng phê phán là để khẳng định giá trị của gia đình Việt Nam trong thời mở cửa, hoà nhập, giao lưu với cộng đồng quốc tế.

 Những chuẩn mực đạo đức mà Ma Văn Kháng đề xuất có thể sẽ thay đổi theo năm tháng, nhưng trong thời điểm hiện nay, chúng đúng là “chuẩn mực”, có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng gia đình Việt Nam kết hợp cả truyền thống và hiện đại. Với những đề xuất như thế, Ma Văn Kháng đã khẳng định mình là một nhà văn rất có ý thức về trách nhiệm xã hội của văn học, dùng văn học để can thiệp vào đời sống, làm cho đời sống con người ngày càng trở nên lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn.

Tài liệu tham khảo:

[1] M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội-1992.

[2] Minh Dương, “Bản lĩnh người thầy và ngòi bút chiến đấu của nhà văn”, Giáo viên nhân dân, (6), 1990.

 [3] Ma Văn Kháng, Heo may gió lộng, (tập truyện ngắn), NXB Văn học, Hà Nội-1992.

[4] Ma Văn Kháng, Đám cưới không có giấy giá thú, NXB Văn học-1995.

[5] Ma Văn Kháng, Trăng soi sân nhỏ (tập truyện ngắn), NXB Văn học, Hà  Nội-1995.

[6] Ma Văn Kháng, Chó Bi, đời lưu lạc, NXB Văn hoá – Thông tin, Hà Nội-1999.

[7] Ma Văn Kháng, Ngược dòng nước lũ,  NXB Hội Nhà văn, Hà Nội-2000.

[8] Ma Văn Kháng, Côi cút giữa cảnh đời , NXB Văn học, Hà Nội-2001.

[9] Ma Văn Kháng, Ma Văn Kháng truyện ngắn, Tập 1, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà Nội-2001.

[10] Ma Văn Kháng, Ma Văn Kháng truyện ngắn, Tập 2, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà Nội-2001.

[11] Ma Văn Kháng, Mùa lá rụng trong vườn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội-2003.

[12] Trần Hoàng Thiên Kim, “Những cuộc “tổng kiểm kê” của nhà văn Ma Văn kháng”, Tiền phong chủ nhật, (43), 2003.

[13] Phong Lê, Vẫn chuyện văn và người, NXB Văn hoá – Thông tin, Hà Nội-1999.

[14] Phong Lê, “Trữ lượng Ma Văn Kháng”, Văn nghệ, (20, 21), 2005.

[15] Lã Nguyên, “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”, Văn học, (2), 1999.

[16] Nhiều tác giả, Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1985: Tác phẩm và dư luận, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội-1997.

[17] Trần Đình Sử, Tuyển tập Trần Đình Sử, Tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội-2005.