Những ngôi mộ gió – Bút ký của Trầm Hương

875

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nhà văn Trầm Hương sinh năm 1963, tại Bình Đại, Bến Tre, chị tốt nghiệp Kỹ sư Nông nghiệp, Cử nhân Điện ảnh, Thạc sĩ Báo chí. Chị đoạt nhiều giải thưởng về thơ, truyện ngắn và tiểu thuyết. Đặc biệt, nhà văn Trầm Hương đã từng gặp gỡ và trò chuyện với các mẹ Việt Nam Anh Hùng trên khắp cả nước, chị tham gia viết kịch bản cho những dự án phim tài liệu, viết sách về những mẹ Việt Nam Anh Hùng. Văn Chương Phương Nam xin hân hạnh giới cùng bạn đọc một trích đoạn trong cuốn truyện ký “Khoảng lặng nước mắt” – những câu chuyện về những cuộc đời đầy day dứt và mất mát của các bà mẹ có con hy sinh vì tổ quốc thiêng liêng.

Nhà văn Trầm Hương

Trong quá trình tìm tư liệu viết kịch bản “Huyền thoại mẹ Việt Nam Anh hùng”, tôi được gặp nhiều số phận đặc biệt của những bà mẹ mất con, trên những nẻo đường đất nước. Điều ám ảnh tôi mãnh liệt là nỗi đau đáu, trông chờ, khắc khoải của những bà mẹ mong tìm được hài cốt con mình đưa về quê hương. Trên những nghĩa trang bạt ngàn, trùng điệp trải dài khắp miền đất nước, không thể đếm hết những ngôi mộ gió chờ một nắm tro cốt, hay chỉ một vết tích của người hy sinh để an ủi lòng người thân. Và dưới những ngôi mộ ở nghĩa trang liệt sĩ, có biết bao những người lính nằm xuống với hình hài không nguyên vẹn. Người ngã xuống cho Tổ quốc không tìm được hài cốt, không được chôn cất tử tế luôn làm người thân day dứt, trăn trở.

Nỗi đau ấy đọng lại trong trong những rảnh thời gian khắc sâu trên gương mặt mẹ Trương Thị Ngưới, dân tộc Tày, tại bản Nhừng, bên bờ sông Kỳ Cùng, ven thành phố Lạng Sơn. Mẹ có người con trai duy nhất – anh Hoàng Văn Như, hy sinh ở chiến trường Quảng Ngãi, năm 1971. Dù bị lãng tai nặng nhưng chương trình “Nhắn tìm đồng đội” nào mẹ Trương Thị ngưới cũng mở ti-vi, cố lắng nghe. “Mấy mươi năm, tôi cố nghe đài, tối nào cũng nghe, chẳng thấy thằng Như đâu!”. Mẹ Trương Thị Ngưới nghẹn ngào nói. Như bao bà mẹ miền Tây Bắc, Đông Bắc mà chúng tôi đã gặp; mẹ Trương Thị Ngưới bộc bạch, niềm mơ ước lớn nhất của mẹ là tìm được hài cốt con trai, đưa về nghĩa trang Ca Lộc – quê hương của mẹ, để “con cháu còn được thấy bố nó”. Mẹ nói: “Nhà nước tìm được thằng Như thì cho tôi hay, thấy thằng Như ở đâu thì báo cho tôi biết để tôi đưa con về!”.  Vì niềm mơ ước ấy mà mẹ Trương Thị Ngưới đã nỗ lực lao động, chắt chiu từng đồng, “để có dịp mẹ sẽ đi tìm con!”. Tôi lặng nhìn những bà mẹ đã sống cuộc đời cao đẹp, với nỗi đau và sự hy sinh trong thầm lặng. Nơi xóm làng xa xôi ven bờ sông Kỳ Cùng, có một bà mẹ không nguôi nỗi nhớ thương con, không nguôi nỗi trăn trở mang được hài cốt con trai trở về bản làng. Nhưng tôi biết những người mẹ đau đớn vì mất con đã đứng lên với sức mạnh phi thường, như bà mẹ hiện hữu trước mặt tôi – mẹ Trương Thị Ngưới. Bằng sức lao động bền bỉ, bằng tình yêu con cháu thấm đẫm, mẹ đã nỗ lực lao động trên cánh đồng, nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh. Đến thăm mẹ rồi tôi phải ra đi nhưng hình ảnh người mẹ ngồi bên ti-vi, dõi theo chương trình “Nhắn tìm đồng đội” theo suốt tôi trên đường về. Những người đang sống nợ những người mẹ niềm mơ ước “đưa con về quê hương” giản dị nhưng vô cùng lớn lao, trĩu nặng ân tình.

Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Trương Thị Ngưới, sinh năm 1924, Dân tộc Tày, thị xã Lạng Sơn. Mẹ có người con trai duy nhất – anh Hoàng Văn Như hy sinh ở chiến trường Quảng Ngãi, năm 1971.

“Quảng Bình quê ta ơi”,  vùng đất “gió Lào cát trắng” đã có biết bao bà mẹ không chỉ oằn mình chịu đựng mưa bom bão đạn từ kẻ thù xâm lược, những cơn siêu bão từ thiên tai khắc nghiệt mà còn sống cùng nỗi đau mất con suốt những năm tháng còn lại của đời người. “Không có gì bù đắp được nỗi đau mất con” nhưng Mẹ được bù đắp, vì còn Tổ quốc. “Có khổ đau nào bằng mất con” nhưng Mẹ Hà Thị Viễn đã kiên cường vượt qua nỗi đau, bền bỉ, thầm lặng; như biển Nhật Lệ ngày đêm vỗ sóng vào bờ. Thật cảm động trước tấm lòng bao dung, cao cả của người Mẹ. Trước cuộc chiến đấu sinh tử của quân dân với kẻ thù có trong tay quá nhiều ưu thế sức mạnh chiến tranh, mẹ quên hết những khổ đau, cơ cực, oan khuất năm xưa, khi gia đình mẹ là một nỗi oan trong cải cách ruộng đất. Mẹ lần lượt tiễn đưa các con ra trận. Và lần lượt những lá thư báo tử về đến ngôi nhà Mẹ. Ba người con trai của mẹ: Nguyễn Phú Tường, Nguyễn Phú Khương, Nguyễn Phú Phúc lần lượt ngã xuống cho Tổ quốc.

Không gì bù đắp được nỗi đau mất con nhưng hàng triệu bà mẹ hai miền Nam Bắc đã phải đối mặt với nỗi đau to lớn ấy, đã phải cắt ruột mình gởi con đến khắp miền đất nước, cho ngày hòa bình, thống nhất đất nước. Tổ quốc quá thiêng liêng nên có những bà mẹ nuốt lại những thổn thức riêng tư, bằng nghị lực mạnh mẽ, kiên định vào niềm tin chiến thắng, vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua trận chiến chính trong lòng mình. Có những lúc Mẹ Hà Thị Viễn không khỏi bức xúc, khi anh Nguyễn Phú Phúc hy sinh mấy mươi năm rồi mà mẹ vẫn chưa có được tấm bằng Tổ quốc ghi công cho con trai. Và đằng đẵng bao năm dài, nhiều đêm giấc ngủ của mẹ bị cắt vụn bởi những giấc mơ đi tìm con. Trong ba người con hy sinh, cho đến nay, gia đình vẫn chưa tìm được hài cốt anh Nguyễn Phú Tường. Khi quy tập các con về nghĩa trang, mẹ cắt một khúc dâu tượng trưng cho hài cốt của anh Tường…

Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Hà Thị Viễn, sinh năm 1923, quê tổ dân phố 7, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ba con trai của mẹ Nguyễn Phú Tường, Nguyễn Phú Khương, Nguyễn Phú Phúc hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.

Tôi được gặp Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Thiều Thị Tú ở Đông Sơn, Thanh Hóa. Anh Thiều Quang Sòng – người con trai duy nhất của mẹ được đưa đến chiến trường Lào rồi có mặt ở mặt trận Huế, Khe Sanh, Quảng Trị. Trong kháng chiến chống Mỹ, hàng chục vạn người con ưu tú của tỉnh Thanh đã được gởi đến chiến đấu nơi chiến trường miền Nam và anh Thiều Quang Sòng là một trong những liệt sĩ nằm xuống chiến trường Khe Sanh, Quảng Trị; góp phần làm nên cột mốc lịch sử xuân Mậu Thân 1968. Người ra đi, vĩnh viễn không trở về, dâng hiến cuộc đời và máu xương nơi mặt trận ác liệt. Người ở lại hậu phương dũng cảm vượt qua nỗi đau, mất mát, đối diện với cuộc chiến giành giật sự sống thật không dễ dàng. Mấy mươi năm sau, mẹ Thiều Thị Tú và người con dâu Nguyễn Thị Tâm mới có dịp kể cho con cháu nghe những ngày vượt cạn, đi giữa lằn ranh mong manh của sự sống và cái chết. Lúc sinh đứa con út, chị bị chứng tiền sản giật rất nguy hiểm cho tính mạng của mẹ và con. Với tình yêu dành cho con dâu và đứa cháu – giọt máu cuối cùng của con trai để lại cho cuộc đời, mẹ Thiều Thị Tú quyết liệt, khẩn thiết cầu cứu bác sĩ. Mẹ Thiều Thị Tú kể: “Thấy mẹ tụi nhỏ ra nhiều máu, tôi hô hoán, làm dữ quá, mấy ông bác sĩ trong bệnh viện nói: “Bà này giang hồ”. Nói vậy nhưng cũng cảm thông cho tôi. Đến lượt đứa cháu mới sinh ngay đơ, tôi kêu cứu. Bác sĩ nói không sao, sẽ đưa cháu vào lồng kính. Bác sĩ nói nhờ phúc đức, sự quyết liệt của bà đã cứu sống hai mẹ con…”.

Vì niềm tự hào về người thân đã ngã xuống, góp xương máu cho ngày hòa bình, thống nhất đất nước mà những người còn được sống như mẹ Thiều Thị Tú, chị Nguyễn Thị Tâm – người vợ liệt sĩ; những người con của liệt sĩ Trương Quang Sòng là Thiều Quang Văn, Thiều Thị Minh, Thiều Văn Hóa đều tha thiết mong tìm được hài cốt người thân đưa về quê hương. Mẹ Thiều Thị Tú đã nhiều lần vào miền Nam tìm mộ con nhưng vẫn không tìm ra manh mối. Mẹ nói mình già rồi, không đủ sức đi tìm nữa. Mẹ có gửi thư cho Đài truyền hình, theo dõi chương trình “Nhắn tìm đồng đội” nhưng vẫn bặt tăm. Cho đến giờ, mẹ vẫn đau đáu, chẳng biết hài cốt con nằm lại  nơi đâu. Mắt  đã nhòa nên ngay cả di ảnh con mẹ cũng không còn nhìn rõ. Nhưng Mẹ được an ủi vì tuổi già được sống quây quần bên con cháu, an lòng khi biết tre già rồi sẽ có chồi non mọc lên, vững chải…

Bà mẹ VNAH Thiều Thị Tú bên di ảnh con trai Thiều Quang Sòng, hy sinh ở chiến trường Quảng Trị.

Mẹ Nguyễn Thị Thứ – một trong số ít Bà mẹ VNAH cao tuổi nhất (1904 – 2010) của Việt Nam, cũng là Bà mẹ VNAH có nhiều người thân hy sinh cho Tổ quốc, bởi 9 người con trai, 1 con rể và 2 cháu ngoại của mẹ đã ngã xuống cho đất nước. Với vẻ đẹp hồn hậu, sâu thẳm của một người mẹ chịu đựng quá nhiều đau thương, mất mát; mẹ Thứ trở thành biểu tượng  của hàng vạn bà mẹ Việt Nam anh hùng của Tổ quốc, được chọn làm nguyên mẫu xây dựng tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam, được khởi công xây dựng trong dịp kỷ niệm 60 năm Ngày Thương binh-Liệt sỹ. (Mẹ mất vào lúc 01 giờ 40 phút sáng ngày 10 tháng 12 năm 2010 tại Đà Nẵng); mang theo vào lòng đất những câu chuyện về những người con, người cháu anh hùng. Lê Thị Trị là con gái mẹ Nguyễn Thị Thứ, cũng là Bà mẹ VNAH, khi tôi gặp đã suýt soát tuổi 90. Mẹ có chồng và hai con là liệt sĩ. Những câu chuyện về những người đã nằm xuống lòng đất quê hương chất đầy trong lòng mẹ. Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn là nơi yên nghỉ của mẹ Nguyễn Thị Thứ, cũng là nơi quy tập  không chỉ 9 người con của mẹ mà có con rể Ngô Tưởng – chồng con gái Lê Thị Trị và hai người cháu ngoại của mẹ Thứ. Người cha anh hùng đang nằm lại trên mảnh đất quê nhà là ông Lê Tự Nghị – chồng mẹ VNAH Nguyễn Thị Thứ. Chị Ngô Thị May – người con gái út của mẹ VNAH Lê Thị Trị vẫn còn nhớ như in vào lòng giây phút thinh lặng của ông ngoại, khi nghe con trai Lê Tự Trịnh hy sinh, năm 1970: “Hôm ấy cậu tôi bị chiêu hồi chỉ điểm hầm bí mật, đã chiến đấu với địch đến hơi thở cuối cùng rồi hy sinh. Trong lúc đó, địch bắt dân lùa vào lên xã, dồn vào một khu lấy thép gai vây quanh,  để dễ “tát nước bắt cá”, truy sát cán bộ, bộ đội dưới hầm. Bỗng có tên lính ngụy mở cửa rào, hỏi: “Ai là Lê Tự Nghị?”. Ông ngoại trả lời: “Dạ tui”. Tên lính sừng sộ: “Con ông là Việt cộng đầu só. Trước khi chết còn hô “Đả đảo đế quốc Mỹ. Con ông đã bị quốc gia giết rồi!”. Ông ngoại cố ngăn lại xúc động, trầm tĩnh trả lời: “Ông lầm rồi. Chắc là nhầm với ai đó. Không phải con tôi đâu! Con tôi đang học ở Sài Gòn…”. Nói vậy nhưng khi tên lính đi rồi, ông kêu tôi: “Con đánh bò ra”. Tôi hiểu ý ông ngoại. Ông muốn dẫn con bò theo ngụy trang, giả làm người đi chăn bò, ra bên làng Thanh Tú xác minh, nghe ngóng tình hình. Khi trở về, ông trầm ngâm không nói gì, cố nuốt nước mắt vào trong… Khi địch rút quân, ông ngoại đi qua làng bên. Tôi vác cuốc lủi thủi theo ông. Tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy ông ngồi nắn đất sét, gương mặt buồn lặng. Tôi hỏi: “Ông nắn cái chi vậy ông ngoại?!”. Ông nghèn nghẹn trả lời: “Nắn tay, chân cho cậu con. Cậu con chết thật rồi. Chúng liệng lựu đạn xuống hầm, cậu con mất hết tay, chân!”. Tôi òa khóc nhưng ông ngoại cố không để rơi nước mắt. Ông ngoại tắm rửa, tự tay tẩn liệm cho cậu Lê Tự Trịnh. Ông tháp những cái tay, chân bằng đất sét vào người cậu, để khi đem chôn, người cậu liền lạc, còn đủ tay chân… Ông lấy chiếu quấn quanh người cậu, chôn cậu trong đêm. Tôi không bao giờ quên được phút ngồi lặng thinh của ông ngoại khi nghe cậu hy sinh…

Tác giả gặp Bà mẹ VNAH Lê Thị Trị, Điện Bàn, Quảng Nam, năm 2013.

Ngược về Nam, tôi được gặp bà mẹ VNAH Phan Thị Hồng tại Vĩnh Long. Chồng và con trai mẹ đều ngã xuống cho Tổ quốc. Chiến tranh trôi qua đã mấy mươi năm, vậy mà mẹ Phan Thị Hồng vẫn nhớ như in lần đưa đồng chí Võ Văn Kiệt –  lúc ấy là Bí thư Khu ủy Sài Gòn Gia Định, trên chiếc võ lãi, từ căn cứ U Minh, ra Hộ Phòng. Khi ấy tàu địch giăng kín sông. Mẹ kể: “Trước lúc xuống võ lãi, chú sáu Dân (Bí danh đồng chí Võ Văn Kiệt) thấy mình trắng quá, không giống như dân sông nước xứ U Minh, nên chú lấy dầu nhớt tha lên da cho lem luốc, để bớt trắng. Mẹ dự đoán tình huống khi  chở mấy chú đi công khai, lỡ đụng tàu địch, hoặc bọn lính ở trạm  xét hỏi, sẽ rất căng nên dặn chú Sáu: “Chú Sáu ơi, ra ngoài đó, chú nín thinh, giả điếc nghen!”. Chú sáu giả điếc rất giống. Anh sáu Quắn ngồi phía trước, chú Sáu ngồi phía sau, mẹ cầm lái. Đúng như mẹ đoán, tàu địch kêu lại xét hỏi. Chú Sáu giả bộ không nghe gì. Mẹ nói “Đây là chú tôi. Chú bị bệnh nặng lắm!”. Tên lính hỏi: “Bệnh gì?”. Mẹ nói nhanh: “Bệnh lao”. Tên lính tỏ ra ghê sợ, khoát tay: “Thôi đi đi”. Chú Sáu là vậy, rất bình tĩnh, vững vàng trước mọi tình huống!”. Trong cuộc đời làm giao liên công khai, mẹ không nhớ mình đã thực hiện bao chuyến đi, chở bao nhiêu tấn vũ khí, đưa đón bao cán bộ – có cả những cán bộ lãnh đạo cấp trung ương như đồng chí Võ Văn Kiệt, Vũ Đình Liệu – Bí thư Xứ ủy Khu 9, đưa bao người vợ, người chồng sau bao năm xa cách gặp nhau… Những chuyến công tác khó khăn nhất, nguy hiểm nhất, bằng sự mưu trí, dũng cảm, lòng trung thành vô hạn dành cho cách mạng, cho Tổ quốc, mẹ đã quên mình hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng có một việc mà mãi đến hôm nay, lòng mẹ luôn day dứt, mẹ vẫn thấy chưa yên lòng. Nghĩa trang Vĩnh Long chừa một chỗ trống dành cho ngôi mộ của con trai mẹ – liệt sĩ Lê Công Chiến. Trong trận đánh vào mục tiêu Đài Phát thanh Cần Thơ Tết Mậu Thân, anh Lê Công Chiến hy sinh, cho mãi đến nay, vẫn chưa tìm được hài cốt. Trước mộ chồng – liệt sĩ Lê Công Nhâm từ Tây Ninh được quy tập về nghĩa trang Vĩnh Long, mẹ thầm hứa với vong linh chồng: “Em sẽ hết sức cố gắng tìm Chiến về, bên cạnh anh!”.

Mẹ VNAH Phan Thị Hồng (Vĩnh Long) bên di  con trai Lê Công Chiến, hy sinh 1968. Cho đến nay mẹ vẫn chưa tìm được hài cốt con, ngôi mộ gió ở nghĩa trang vẫn  còn trống. Ảnh chụp  năm 2014.

Nỗi  đau của những bà mẹ Việt Nam anh hùng cứa vào tim gan người còn sống từ những ngôi mộ gió trống rỗng xương cốt người nằm xuống. Gió vẫn không ngừng thổi trên nhừng ngôi mộ gió theo tháng năm…

                                            Tháng 7, 2018

T.H