Odessa, cái batoong của thi hào Puskin và ‘Bông hồng vàng’

905

Vũ Tuấn Hoàng

(Vanchuongphuongnam.vn) – Trên phố Puskin hiện diện bức tượng cao bằng người thật của nhà thơ Nga vĩ đại với chiếc batoong cắp sau lưng. Thấy tôi vuốt vuốt cán của chiếc gậy bằng đồng đã lên nước sáng bong, một ông già đang tưới cho mấy luống hoa ở cạnh đó bước lại nói: “Chiếc gậy bằng đồng đó khiến tôi mất ăn mất ngủ đấy. Đã hai lần bị kẻ nào đó cuỗm mất. Cuối cùng, sợ bị đuổi việc, tôi đã hàn chặt nó vào với tay của nhà thơ. Hồi nhỏ, tôi không thích thơ Puskin và bị điểm kém về môn văn, khi về già suýt bị mất việc vì cái batoong của nhà thơ”.

Một góc Odessa 

Có lẽ, cái nóng hầm hập giữa tháng bảy của thành phố công nghiệp Kharkov đã khiến tôi có mặt trên sân ga phía Nam với chiếc balo trên vai mặc dù chưa có vé trong tay.

Con tàu chuẩn bị khởi hành đi Odessa nằm sõng sượt trên đường ray số một, chắc cũng trong một tâm trạng giống tôi, mong muốn càng nhanh càng tốt  rời bỏ cái thành phố với những bê tông và ống khói bụi bặm, để lao ra phía biển, nơi những cánh hải âu đang chao lượn trên bầu trời lộng gió, nơi những con tàu sơn  trắng tinh khôi rúc còi chuẩn bị ra khơi…

Mặc dù bị mất một khoản tiền gấp đôi giá vé nhưng tôi vẫn cảm thấy mình là người may mắn. Anh trưởng toa trạc ngoài ba mươi tuổi, đưa tay lên vuốt vuốt bộ ria mép và nói:

– Bao giờ quay trở lại cứ gọi điện cho tôi, lúc nào cũng có chỗ cho anh.

Tôi cảm ơn lòng tốt của anh ta cho dù phải mua nó với giá gấp đôi.

Trên sân ga người đưa kẻ tiễn bao giờ cũng tấp nập và bịn rịn. Sự biểu lộ tình cảm của người Âu công khai và mạnh mẽ. Một đôi thanh niên mải miết hôn nhau như thể trên sân ga chỉ có hai người. Cả hai đều đẹp. Cô gái có hàng mi cong dài và vẻ mặt đẹp theo kiểu “Người đàn bà xa lạ”, kiếng cả đôi bàn chân trắng nõn với những móng được sơn đỏ cầu kỳ lên để tận hưởng sự ngọt ngào của nụ hôn chia ly. Anh trưởng toa nháy mắt với tôi và lấy tay ra hiệu ý nói cô gái có thân hình thật tuyệt vời. Chỉ có tiếng còi tàu báo hiệu chuyển bánh mới dứt được đôi uyên ương ấy ra. Cô gái vẫn còn đứng ở bậc cửa lên xuống và cầm tay người yêu đang chạy theo.  Con tàu tăng tốc dứt hai bàn tay họ buông nhau ra. Cánh tay vẫy theo của anh con trai, rồi chính anh cũng trở nên nhạt nhòa nhỏ nhoi hòa lẫn vào nhà cửa, những tấm biển quảng cáo, những bụi cây bên đường… Anh trưởng toa đỡ tay cô gái quay vào trong toa. Tôi nhìn thấy đôi mắt đẹp của cô ngấn lệ. Chao ôi, tình yêu của họ mới nồng nàn làm sao!o – Tôi tự thốt lên trong lòng mình và thoáng cảm thấy buồn vô cớ khi người khác hạnh phúc.

Đoạn  miêu tả trên có lẽ hơi lạc đề vì cái mà tôi muốn viết là thành phố Odessa, hòn ngọc nằm bên bờ biển Đen, nơi địa linh nhân kiệt, cái nôi của nhiều danh nhân văn hóa Nga và Ucraina…Song, điều mà tôi tình cờ được mục kích trên chuyến tàu đi xuống thành phố cảng lại luôn luôn ám ảnh tâm trí suốt thời gian  tham quan các danh lam thắng cảnh, bảo tàng và gặp gỡ những người Việt Nam nổi tiếng cũng như vô danh đang định cư sinh sống tại đây. Bởi vậy, tôi quyết định gác câu chuyện này lại  đến cuối bài để khỏi làm hỏng tâm trạng của bạn đọc cũng như của chính người kể chuyện.

Odessa là một trong những thành phố độc đáo và đa sắc nhất Liên Xô cũ. Điều đập ngay vào mắt tôi khi bước chân ra khỏi nhà ga là khung cảnh thành phố rất giống… Hà Nội và Paris. Một lần nữa, ảnh hưởng của văn hóa và kiến trúc Pháp không chỉ có tại các nước thuộc địa cũ ở châu Á và châu Phi mà còn ở một nước đế quốc hùng mạnh vào đầu thế kỷ XX nữa là Nga. Dưới thời Liên Xô cũ mọi người thường nói với nhau: “Đây là thành phố cần phải được nhìn bằng… đôi chân”, ý muốn nói rằng du lịch thành phố cảng tốt nhất là đi bộ. Cũng như Hà Nội, khu kiến trúc cổ nằm ở trung tâm thành phố, nơi tập trung những danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất của Odessa. Có lẽ, tôi nên bắt đầu cuộc hành trình của mình từ phố Rishelevski, từ tòa nhà màu trắng toát theo phong cách Phương Đông trông như một Thánh đường Hồi giáo. Đây là Trung tâm văn hóa Ả Rập được xây dựng cách đây không lâu dưới sự bảo trợ của một thương nhân giàu có người Ả Rập. Không chỉ riêng tôi mà nhiều người tham quan chắc cũng có cùng suy nghĩ: Trong khu phố cổ không tòa nhà nào giống tòa nhà nào, mỗi nhà đều có một điểm gì đấy khác biệt. Đây cũng là một nét độc đáo trong kiến trúc của Odessa.  Rảo bước theo con phố Puskin đến đoạn cắt nhau với phố Bunhin, chúng ta bắt gặp một tòa Nhà hát giao hưởng quốc gia Odessa (Trước là Sở chứng khoán). Đây là một công trình kiến trúc đòi hỏi sự chiêm ngưỡng tỷ mỷ những bức tranh bích họa, những bức phù điêu đắp nổi và một số lượng rất lớn những cửa kính bán nguyệt đủ màu sắc… Trên phố Puskin hiện diện bức tượng cao bằng người thật của nhà thơ Nga vĩ đại với chiếc batoong cắp sau lưng. Thấy tôi vuốt vuốt cán của chiếc gậy bằng đồng đã lên nước sáng bong, một ông già đang tưới cho mấy luống hoa ở cạnh đó bước lại nói: “Chiếc gậy bằng đồng đó khiến tôi mất ăn mất ngủ đấy. Đã hai lần bị kẻ nào đó cuỗm mất. Cuối cùng, sợ bị đuổi việc, tôi đã hàn chặt nó vào với tay của nhà thơ. Hồi nhỏ, tôi không thích thơ Puskin và bị điểm kém về môn văn, khi về già suýt bị mất việc vì cái batoong của nhà thơ”.

Đeribasovski là tên của con phố nổi tiếng nhất Odessa, cũng là tên của người đầu tiên đã có công đặt nền móng xây dựng thành phố. Đây là phố chỉ dành cho người đi bộ. Nếu ai đã từng tới Paris thì sẽ có cảm giác con người cũng như sinh hoạt của con phố này chẳng khác gì một con phố ở quận 13: Cũng vẫn cái vẻ thanh bình pha chút uể oải kiểu nghệ sĩ, những dãy hàng quán café chạy sát ra tận lề đường và chìm mình dưới bóng những cây sồi cổ thụ hàng trăm tuổi. Khác với nhiều thành phố khác của Ucraina, quán xá ở đây làm việc gần như thâu đêm. Cũng trên phố này còn có một số tượng đài mang tính chất biểu tượng của thành phố: Tượng đài đôi sư tử, tượng đài 12 chiếc ghế (lấy từ truyện ngắn cùng tên của Ilf và Petrov) tượng đài của công dân danh dự, diễn viên kiêm ca sĩ Leonhid Utesov.

Vừa đi hết đoạn cuối của phố Đeribasovski, nhìn chiếc đồng hồ trên cửa của một hiệu bán đồ lưu niệm, tôi bỗng nhớ ra cuộc hẹn từ trước với một người Việt Nam nổi tiếng nhất thành phố Odessa – Ông Nguyễn Văn Khanh – Bác sĩ Công huân của Ucraina. Tôi vội rảo bước đến ngay bến xe buýt ở bên trái nhà hát Opera Odessa, một trong hai nhà hát còn lại được xây theo kiểu của Viên “Baroko”. Mặt tiền của nhà hát được trang trí bởi các pho tượng theo huyền thoại Hy Lạp và phía trước là hàng tượng bán thân của những nhà văn Nga xuất sắc: Puskin, Glinka, Griboedov, Gogol. Đứng ở bến xe đã hơn 15 phút mà vẫn chưa thấy tăm hơi chiếc xe buýt số 299. Một bà mệnh phụ ăn mặc kiểu cổ điển, tay xách làn mây đựng đầy thức ăn, đứng ở gần đó, chắc cũng chờ xe, nhìn thấy vẻ bồn chồn sốt ruột của tôi, bèn nhún vai và nói: “Lại tắc đường”.

Tôi giơ tay quyết định bắt tắc xi: “Cho tôi đến phố Belinxki số 11. Viện Lao của tỉnh”.

Đó là một tòa nhà cũ kỹ hai tầng, vôi vữa tường lở lói chắc đã lâu không được sửa chữa. Nhìn thấy tôi, anh bảo vệ  không cần nghe câu hỏi, chỉ tay qua ô cửa sổ nhỏ, nói ngay:

– Đến bác sĩ Khanh phải không? Đi thẳng, rẽ tay phải và lên tầng hai!

Chắc hẳn, rất nhiều người Việt Nam tại Odessa khi ốm đau đã đến đây nhờ bác sĩ.

Khu bệnh viện giải phẫu lồng ngực đang tiến hành sửa chữa nên bàn ghế, giường tủ… xếp ngổn ngang ngoài hành lang. Đứng trước cánh cửa sơn trắng với tấm biển in chữ nổi bằng đồng: Trưởng khoa ngoại, Phó tiến sĩ khoa học, chuyên gia phẫu thuật cao cấp, viết bằng tiếng Nga, trong lòng tôi không khỏi dâng lên cảm giác tự hào về người đồng hương Việt Nam vì tôi biết rằng để thành đạt được trên mảnh đất còn mang nặng tính dân tộc chủ nghĩa này, để được đồng nghiệp tôn trọng, nể phục, hơn nữa được Tổng thống Ucraina vinh danh là một việc không hề đơn giản chút nào. Đây không phải là một hành động anh hùng nhất thời, không phải sự thành công của một doanh nhân gặp vận may phất lên. Trước hết, đây là tài năng, là sự khổ luyện công phu ngay từ khi còn ngồi trên ghế sinh viên y khoa, là những năm tháng âm thầm lao động thực tế tại các bệnh viện, là sự đối mặt hàng ngày với nỗi đau và cái chết của đồng loại…

Sau mấy tiếng gõ cửa rụt rè của tôi, cánh cửa phòng bật mở. Đứng trong khung cửa là một người đàn ông có tầm vóc nhỏ nhưng rắn rỏi, cặp mắt thông minh ẩn sau cặp kính trắng và mái tóc đã bạc nhiều. Chúng tôi bắt tay nhau và tôi đi thẳng luôn vào vấn đề chính mà mình quan tâm.

– Biết bác sĩ rất bận, nên tôi chỉ dám làm phiền 30 phút. Thú thật là tôi không hình dung ra phòng làm việc của một bác sĩ công huân Ucraina lại khiêm tốn như thế này. Thưa bác sĩ Nguyễn Văn Khanh, việc ông là người Việt Nam đầu tiên được phong danh hiệu cao quí “Bác sĩ công huân Ucraina ” do Tổng thống Ucraina tặng khiến tôi nhớ đến câu chuyện của bác sĩ Hồ Đắc Di thời Pháp thuộc: Người Việt không được quyền mổ người Tây, bác sĩ Di là người Việt đầu tiên làm việc này. Ông có thể cho biết những cảm nhận của người bệnh là “ông bà Tây” khi bác sĩ  cầm con dao mổ là người Việt đến từ một đất nước còn nghèo nàn và lạc hậu?

– Bệnh viện luôn luôn tạo điều kiện cho người bệnh được quyền chọn bác sĩ phẫu thuật cho mình. Việc họ chọn tôi là do sự mách bảo của những bệnh nhân do tôi đã phẫu thuật. Ở các nước tư bản không có sự lựa chọn này. Theo tôi, vấn đề sắc tộc ở đây không có chỗ đứng, người bệnh cần một bác sĩ có tay nghề cao chứ không cần biết đó là người Xlavo, Việt Nam hay Châu Phi.

– Cái gì là nguồn động lực thúc đẩy ông đạt được danh hiệu cao quý này, một danh hiệu mà đến các bác sĩ người bản xứ còn mơ ước? Phải chăng lòng tự trọng dân tộc bị thách thức?

– Hai chữ Việt Nam luôn luôn gắn liền với tôi từ khi bắt đầu bước chân vào giảng đường đại học Y khoa Odessa. Đối với người dân ở đây, Việt Nam gắn liền với chiến tranh, nghèo nàn và lạc hậu. Một con đường duy nhất mà tôi đã tâm niệm và theo đuổi từ khi còn là một cậu học trò nghèo của trường chuyên toán Thanh Hóa – Đó là con đường học vấn. “Dao có mài mới sắc, người có học mới khôn”. Nhờ có những thành quả học tập tốt trong những năm đại học nên sau khi ra trường việc tìm chỗ làm cũng thuận lợi hơn. Chính vì là người Việt Nam nên tôi thấm hiểu và tâm niệm rằng để thành công mình phải nỗ lực cố gắng gấp đôi người bản xứ.

– Để đạt được danh hiệu cao quí “Bác sĩ công huân” chắc chắn ông đã có những đóng góp không nhỏ cho nền Y học Ucraina, cụ thể là gì, thưa ông?

– Tôi không có phát minh sáng chế nào cả. Trước tiên là sự đánh giá quá trình đóng góp cho sự nghiệp Y tế Ucraina trong suốt hơn 25 năm qua, sau đó là đề nghị của tôi về một cơ chế mới trong Viện lao đã tiết kiệm được nhiều tiền cho nhà nước và chính người bệnh: Tiến hành mổ các bệnh ngoại lao ngay tại Viện lao Odessa, mổ nội soi cho các bệnh nhân ngoại lao cũng chỉ diễn ra tại bệnh viện này. Danh hiệu này có giá trị về mặt tinh thần nhiều hơn là vật chất, được thưởng một khoản tiền và được tăng 20% lương. Chế độ hưu trí cũng được quan tâm hơn, đặc biệt nếu muốn mở phòng mạch tư thì không cần xin giấy phép hành nghề của Bộ y tế.

– Xin ông cho biết đôi nét về bức tranh toàn cảnh của ngành y tế Ucraina theo con mắt của mình?

– Tôi là người sống qua hai thời kỳ: Xã hội chủ nghĩa của Liên Xô cũ và Ucraina độc lập phát triển theo hướng kinh tế thị trường. Thực sự là ngành y tế Ucraina đang lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc trước sự đổ vỡ của một hệ thống các  giá trị trước đây. Xã hội cũng như trong ngành Y tế thiếu hẳn những chuẩn mực về đạo đức. Hay nói cụ thể hơn, người bác sĩ làm việc bây giờ 80% chỉ vì đồng tiền và từ đây đẻ ra mọi tệ nạn xã hội bê bối. Bộ máy hành chính quan liêu vẫn còn rất nặng nề, giấy tờ sổ sách chồng chéo phiền hà… song, cái mà tôi cho là tệ hại  nhất là sự khủng hoảng lòng tin vào con người, vào chính quyền vào tương lai của bản thân và đất nước.

– Ông có thể chia sẻ với bạn đọc một kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời hành nghề bác sĩ trên mảnh đất Ucraina, được không? (Bác sĩ Khanh ngả người ra sau ghế và tháo cặp kính trắng ra dụi mắt. Không khí trong phòng chùng hẳn xuống, nghe rõ tiếng con ong đất ri ri ngoài cửa sổ. Tôi hiểu rằng 25 năm là khoảng thời gian dài, biết bao biến cố và sự kiện trong công việc thực hành bề bộn và vất vả của một bác sĩ phẫu thuật. Mấy phút im lặng trôi qua, ông đứng dậy và bước lại bên cửa số nhìn ra đường…).

– Anh đã bao giờ phải đối mặt với một đôi mắt trẻ thơ tuyệt vọng đang gào khóc cầu xin giúp đỡ mà mình lại bất lực chưa? Tôi đã làm hết khả năng của mình nhưng không cứu được người phụ nữ đó. Đến tận bây giờ, tôi vẫn còn trông thấy và nghe thấy đôi mắt cầu xin và tiếng kêu cầu cứu ấy: Bác sĩ ơi, cứu mẹ cháu với! Đôi mắt ấy ám ảnh tôi nhiều năm trời, nó làm tôi suy nghĩ rất lung về sứ mệnh của người Bác sĩ và ý nghĩa của cuộc sống. Luôn phải tiếp xúc và chứng kiến bệnh tật và cái chết của con người nên tôi rất yêu quí cuộc sống và nâng niu trân trọng từng khoảnh khắc mong manh của nó….(Nói đến đây ông đưa tay mở mạnh cánh cửa làm ào vào căn phòng nhỏ yên tĩnh những âm thanh náo động và cái không khí nóng ẩm kiểu nhiệt đới của một thành phố biển chứa đựng trong mình nhiều di tích và  huyền thoại).

Tôi biết ông là người rất am hiểu về văn học thi ca Nga, ưa thích âm nhạc cổ điển và là một người chơi Piano nghiệp dư có đẳng cấp. Ánh mắt tôi bắt gặp trên giá sách cuốn “Bông hồng vàng” của Pautovski, nhà văn mà tôi yêu thích thời sinh viên. Tôi bước lại và xin phép được xem ấn bản in rất cũ, khoảng những năm 60 của thế kỷ trước. Bác sĩ Khanh đặt cốc trà lên bàn và nói bằng giọng vẫn còn đậm chất Thanh: “Cách đây mấy hôm, Viện bảo tàng Pautovski ở Odessa có làm lễ tưởng niệm 42 năm ngày mất của nhà văn. Nghề văn và nghề y gần gũi nhau, cùng đối tượng nghiên cứu và phục vụ là con người. Nghề y – Thể xác, còn nghề văn – Tâm hồn. Nếu anh có thời gian nên ghé qua thăm nơi sống và sáng tác của Paustovski từ năm 1919-1922, cũng gần đây thôi, thoạt tiên là đến Cầu thang 192 bậc nổi tiếng Pochomkin và từ đó đi bộ dọc theo phố Biển Đen, nhà số 8”.

*

Tôi đứng trên đầu cầu thang và đưa mắt nhìn xuống những bậc thang huyền thoại màu xám đã bị rêu phong của thời gian, của nắng và gió biển Đen. Xa hơn một chút, toàn bộ khu cảng chính phơi mình lồng lộng dưới ánh mặt trời phương nam như bộ ngực trần nở nang của chàng lính thủy. Đây là một di tích nổi tiếng thế giới và đã đi vào lịch sử văn hóa của đất nước nhờ những bài ca, trường ca, tiểu thuyết và phim ảnh kể từ khi được khởi công xây dựng từ năm 1825 theo đơn đặt hàng để làm quà tặng của Công tước Voronsov cho vợ là Elizavet. Cầu thang đã chứng kiến bao sự kiện thăng trầm của lịch sử đế quốc Nga, chính vì thế mà  cũng được thay tên đổi họ đến bốn lần. Nó thực sự nổi tiếng thế giới nhờ bộ phim “Chiến hạm Pochomkin” của Xergay Enzenstanh vào năm 1925. Nhà đạo diễn điện ảnh thiên tài của Liên Xô đã làm cho bộ phim trở thành kiệt tác bất hủ của nhân loại nhờ những cảnh quay diễn ra trên cầu thang này: Để tạo nên một bối cảnh mang tính khái quát về bạo lực mù quáng và sự thất vọng của con người, ông đã dàn cảnh một cháu bé tám tuổi cùng với mẹ đang nhìn ra phía biển nơi có chiến hạm Pochomkin bỏ neo, thế rồi đột nhiên những tên lính xuất hiện, mọi người bỏ chạy tán loạn trên những bậc thang dài hun hút, kẻ ngã người lăn… Cao trào là cảnh một chiếc xe nôi của ai đó bị xô đẩy, lăn trượt trên cầu thang… và, nó cứ lăn trượt như thế trên khắp các màn ảnh tại các rạp chiếu phim thế giới trong nhiều thập kỷ, để rồi người ta cũng quên luôn những cái tên trước của cầu thang này đi và gọi là Cầu thang Pochomkin.

Phố Chernomorski kề ngay sát mép biển, nhỏ hẹp và yên ả. Hai bên đường trồng những loại cây lá giống như cây phượng nhưng hoa màu tim tím. Đây là một ngõ phố thì đúng hơn vì chỉ còn lại vẻn vẹn bảy ngôi nhà đã cũ. Bảo tàng được thành lập năm 1998 theo sáng kiến của “Hội những đọc giả yêu thích Paustovski” tại  ngôi nhà mà nhà văn đã sống từ năm 1919-1922. Chính tại ngôi nhà thấp bé, với những căn phòng nhỏ hẹp này những tác phẩm hay nhất viết về biển và thành phố Odessa đã ra đời. Tôi cảm động đến trào nước mắt khi nhìn những đồ vật sử dụng hàng ngày của nhà văn mà mình ngưỡng mộ: Cái lò sưởi bằng gang cũ kỹ, chiếc bàn là sắt bé như bàn tay, bộ ấm chén bằng gốm và cứ đi quanh ngắm nghía mãi chiếc máy đánh chữ cổ lỗ sĩ đã han gỉ. Đồ nghề của một Nghệ Nhân Chữ bậc thầy thật giản dị nhưng cũng vô cùng huyền bí. Tranh thủ lúc bà trông coi bảo tàng ra ngoài, tôi khẽ lướt mấy ngón tay của mình lên những phím chữ đã mòn với ý nghĩ mê tín rất trẻ con là “ma lực văn” của ông sẽ truyền vào tay mình. Tôi bỗng nhớ đến thời sinh viên đi thăm quan trang trại của Tolstoi ở Poliana . Lúc cả đoàn đã ra hết ngoài sân, tôi vẫn còn nán lại trong phòng làm việc của Tolstoi để… đội thử chiếc mũ phớt màu trắng của ông treo trên giá. Đầu tôi lọt thỏm trong chiếc mũ rộng. Tolstoi vĩ đại không chỉ ở bộ não mà còn ở kích thước đầu.

Bảo tàng này là chi nhánh của bảo tàng văn học Odessa (hầu hết các nhà văn lớn của Nga đều có thời gian sinh sống và làm việc tại đây) nơi gìn giữ những bản thảo đầu tiên của các tác phẩm viết về biển, về thành phố của Paustovski mà đỉnh cao là truyện vừa “Thời khát vọng”. Chính tại đây, các nhà văn Nga cùng thời đã thành lập một câu lạc bộ những người viết văn trẻ “Dưới gốc cây táo” mà người khởi xướng là Paustovski, Isac Bebel và Isac Livsixa. Tôi khó diễn tả được cảm xúc của mình khi  nâng niu trên tay bản in đầu tiên của cuốn “Bông hồng vàng” với lời đề tựa trên trang nhất bằng kiểu chữ tiếng Nga cổ: “Chỉ có văn học không thừa nhận cái chết – Santukov Sedrin và Cần phải luôn luôn hướng tới Cái Đẹp – Banzak”. Ông Viktor Glusakov – giám đốc bảo tàng chỉ cho tôi bức tượng bông hồng  bằng đồng để trên nắp chiếc đàn piano ở góc phòng và nói: “Một nghệ nhân odessa đã đúc bức tượng bông hoa hồng kia và gửi tặng nhà văn. Mỗi người dân Odessa đều tìm thấy trong tác phẩm của ông một cái gì đó của mình, gần gũi, ruột thịt”. Ông Viktor trước đây là thủy thủ. Những trang sách về biển của Pautovski đã dẫn dắt ông tới bảo tàng này và ông quyết định dành phần đời còn lại cho sự nghiệp bảo tồn và gìn giữ  di sản của một bậc thầy văn chương thế giới…

Đoạn kết

Thay cho lời chia tay với thành phố biển, tôi xin kể nốt cậu chuyện bỏ dở trên chuyến tàu khi đi xuống Odessa: Tôi thức giấc vì khát và cái nóng ngột ngạt trong toa, vì tiếng trẻ con khóc và tiếng va đập của cánh cửa chớp bị hỏng khóa. Hành lang sáng mờ mờ dưới ngọn đèn nhỏ gần cupe của trưởng toa. Tôi quờ quạng chân tìm đôi dép để đi uống nước. Trưởng toa bao giờ cũng kinh doanh thêm những món hàng nho nhỏ như nước uống, thuốc lá, kẹo bánh… Ngoài hành lang mát hơn vì các cửa sổ đều mở tung đón gió đêm. Tôi nắm tay lên lan can và đi loạng choạng về phía cupe của trưởng toa. Cánh cửa đóng chặt, tôi gõ mấy cái nhưng không ai lên tiếng vì bánh xe xiết lên  đường ray tạo nên những âm thanh chói tai át đi tất cả. Tôi nắm chốt cửa và mở mạnh. Dải ánh sáng lờ mờ hắt vào căn buồng tối om cũng đủ để tôi nhìn thấy bốn cái chân trần trắng nhờ nhờ ở ngay sát cửa và những tiếng thở nặng nhọc… Tôi hiểu ra và định khép cửa nhưng chợt sững lại vì trông thấy đôi chân trắng nõn tuyệt đẹp có móng sơn đỏ, đôi chân mà tôi được chiêm ngưỡng hồi chiều trên sân ga, đôi chân đã kiễng lên để đón nhân nụ hôn của một  tình yêu đẹp… Còn đôi chân lúc này, có phải là của tình yêu hay không?

Tôi đóng sập cửa lại.

odessa

V.T.H