Phạm Trung Tín phía “Đường chân trời”

1032

Đặng Nguyệt Anh

(Vanchuongphuongnam.vn) – Người thơ Phạm Trung Tín lắm tơ vương, nhiều dan díu. Gặp tà áo bà ba của em gái miền sông nước Nam bộ là anh đã đứng ngồi không yên. Lên Tây Nguyên, gặp cô gái Banar: “Hồn nhiên như núi với đồi. Lối mòn sỏi đá thương đôi chân trần”, không biết rừng núi bồi hồi hay lòng anh bồi hồi: Mai này phố thị tôi ngồi nhớ em!”.

Tập thơ Đường chân trời của nhà thơ Phạm Trung tín

Một buổi sáng trời mưa gió, cách đây vài tuần, Phạm Trung Tín phóng xe máy đến nhà tôi. Tôi vội hỏi “Có việc gì vậy?”. “Dạ, em đã hẹn với chị rồi, em phải đến. Tên em là Tín mà”. Thì ra, một cái tên định mệnh! Tín là phải giữ chữ Tín với mọi người.

Tuổi trẻ gặp thời binh lửa, anh đã cầm súng ra đi, cùng với lớp trai lên đường cứu nước. Rời binh nghiệp, anh tiếp tục học hành. Kết quả, hai bằng cử nhân triết học và kinh tế. Đây là sự phấn đấu đáng ghi nhận.

Là một người sống chân thật, mộc mạc và nhân hậu “ăn mình nét ở nết ăn” sao cho phải Đạo “buộc đời bằng sợi văn chương”. “Đường chân trời” là tập thơ thứ 5 của anh. Năm tập thơ là sự cố gắng, đam mê, cần mẫn. Nhất là thời buổi phải bỏ tiền túi ra mà in thơ! Anh vẫn hiểu “Đời Văn đôi lúc trái ngang”. Nhớ đến thi tài, mệnh bạc của thi sỹ họ Hàn: “Trường thơ loạn giữa đất trời. Từng câu máu ứa cho đời tinh hoa. Tiếng đau còn vọng Quy hòa. Người đà thiên cổ nhạt nhòa hồn trăng”.

Thật thà, tử tế mà vấp phải nghiệp phận éo le. Cuộc sống đang bình yên, ấm áp thì người vợ hiền bỏ anh mà đi. Để lại hai đứa con nhỏ. Từ nay gà trống nuôi con: “Em đi đã mấy mùa rồi. Tháng ngày vỡ nửa, đứng ngồi ngổn ngang… Em đi bỏ lại nắng mưa. Gian truân anh giữa gió lùa ngày đông”. Đây là bài thơ anh viết nhân ngày giỗ vợ thứ 15. Một bài khác viết ngày giỗ vợ thứ 18. Thật cảm thương: “Con mình chưa kịp trưởng thành. Như hai chim sáo lạc cành cội xa”. Hai con dại không có mẹ, anh đang phải ấp iu, anh càng thương cho những cảnh đời hẩm hiu côi cút: Em Diện “Đã tàn tật lại mồ côi. Nỗi đau cứ thế nhân đôi thành đời”. Không cha mẹ, nương nhờ hàng xóm, sớm tối lần hồi rau cháo, đói rét co ro trên chiếc xe lăn, đầu đường cuối chợ: “Sinh ra ai cũng kiếp người. Mà sao lận đận khóc cười là em?”. Sự cảm thông của một tấm lòng yêu thương.

Phạm Trung Tín sống mộc mạc, chân tình. Nửa đời sau anh lui về vui thú điền viên, sống hiền bên sông “ngõ nhà hoa trái trổ bông”, có tiếng gà trưa, tiếng chó sủa, có câu thơ thấm đẫm nắng mưa, cơm canh đạm bạc, đêm thừa trăng sao. Tâm hồn nhà thơ đã hòa quyện với thiên nhiên, vạn vật… Và rất đúng cách của người quê, bằng một câu thơ giản dị, mà hay, mà khó viết, chỉ người gắn bó máu thịt với làng quê đồng ruộng, mới viết được câu như thế này: “Lòng như da thịt ruộng đồng”. Tôi chưa bao giờ nghe ruộng đồng có “da thịt”. Rất lạ!

Sinh nhật lần thứ 63, Phạm Trung Tín viết bài thơ như bộc bạch tâm tư: “Điền viên mộng mị bình thường. Hiền cư cây cỏ khiêm nhường bên sông. Rượu thơ tri ngộ đôi dòng. Viết câu gian khó vào trong tuổi mình”. Thật điềm tĩnh, chín chắn, bình thản chấp nhận gian khó vì đó là quy luật của cuộc đời!

Sống hiền rồi cũng gặp lành! Trời bắt anh phải chia lìa người vợ trước, nhưng đã bù đắp, đưa đến cho anh người phụ nữ thứ hai, cũng hiền hậu nết na. Một người trẻ tuổi, trước là chú cháu, sau thành anh em, biết gánh vác, biết cảm thông, chia sẻ: “Tuổi chênh tôi chút ngậm ngùi. Rộng lòng em lại ngọt bùi sẻ chia!”. Và anh thật sự hạnh phúc trong tình yêu mới: “Cơm canh đạm bạc tập tàng cá ao. Tựa chiều nhè nhẹ mây cao. Tựa em tôi lại nghêu ngao đời mình”. Chứng tỏ cuộc sống đang rất nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái. Câu thơ đưa lại cho người đọc cảm giác thoải mái, dễ chịu. Từ “nghêu ngao”để đây thật hay!

Sinh nhật bạn thơ, bạn đồng niên Trần Trí Thông, anh có thơ tặng bạn nhưng cũng là nói với mình, nâng ly để “chạm tuổi già”. Cả hai đều đã nụ cười chân chim, nhưng tâm hồn bình yên, cuộc đời vẫn vui dù có gian nan vất vả: “Sáu tư tuổi lắm trật trầy mà vui”. Vậy là mừng lắm, vì người thơ đôi khi không lý giải được, buồn vui vô cớ như thi sĩ Xuân Diệu ngày trước “Tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn”. Ở đây nhà thơ ”tự mình làm một bơ vơ”, rồi than thở “sao tôi hụt hẫng thế này”. Bởi cái thói đa cảm của người thơ ý mà. Anh thương cho nàng Kiều: “Hồng nhan chi để úa nhàu tuổi hoa”. Nghẹn ngào trước nỗi đau ứa máu của Hàn Mặc Tử. Rồi lại lênh đênh vương víu với các em gái ở chợ nổi miền tây bao la sông nước: “Bồng bềnh điệu lý xôn xao. Con sông cứ thế chảy vào lòng tôi… Khôn tôi thành kẻ dại khờ. Chợ tan rồi cứ thẫn thờ với sông…”. Đúng là người thơ đa cảm! Chí ít cũng không phải một lần, nhà thơ thẫn thờ với sông. Mà thời trẻ, khi con tim mới biết rung cảm cho tình yêu đầu đời, anh đã lỡ chuyến đò tình, để cả đời nuối tiếc: “Ngày xưa đau nỗi muộn màng. Ta vừa chạm bến người sang sông rồi”. Lỡ đò một chuyến, để đau một đời. Không chỉ lỡ đò, đời còn lắm truân chuyên, dâu bể: “Đường chân trời – nỗi bể dâu… Chỉ thơ lưu dấu nỗi đau của đời”.

Người thơ Phạm Trung Tín lắm tơ vương, nhiều dan díu. Gặp tà áo bà ba của em gái miền sông nước Nam bộ là anh đã đứng ngồi không yên. Lên Tây Nguyên, gặp cô gái Banar: “Hồn nhiên như núi với đồi. Lối mòn sỏi đá thương đôi chân trần”, không biết rừng núi bồi hồi hay lòng anh bồi hồi: “Mai này phố thị tôi ngồi nhớ em!”. Lòng người vương vấn, nhìn vạn vật xung quanh cũng thấy vấn vương, quyến luyến. “Bắt đền dan díu” là bài thơ mang tâm trạng như thế: “Gió ngồi dan díu hương mai. Trộm nhìn vườn vắng – hình hài bão giông. Nét trời nên những đường cong. Lưng ong thắt lại một vòng thiên thai”. Câu thơ giàu hình tượng, gây ấn tượng.

Là người sống cởi mở, chân tình, nhà thơ Phạm Trung Tín có nhiều bạn bè, nhất là bạn bè văn chương. Họ biết trân trọng, yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ nhau. Anh cũng có nhiều thơ tặng bạn: Huynh có Giang Lam, Lưu Trần Đại, muội có Trần Mai Hường, ngang tầm phải lứa có Trần Trí Thông, Đinh Thường, Phạm Hữu Bình và còn nhiều nữa.

Con người ta, thời trẻ thường tung hoành ngang dọc. Sau những thác ghềnh, từng trải, được thua, đến xế chiều, chựng lại. Trẻ hướng ngoại, già hướng nội. Phạm Trung Tín đã đến tuổi hướng nội. Lòng hướng về nguồn cội, về cố hương. Trong tất cả sự “hướng” ấy, đặc biệt anh hướng về mẹ già. Nhà thơ có chùm thơ viết về mẹ rất cảm động: Về bên mẹ, bình yên bên mẹ, về thăm mẹ, tâm nhang con nguyện… Những câu thơ viết về Mẹ rất thật, rất thương: “Tết này sang tuổi chín ba. Mẹ như than rạ, chuối già chín cây”. Than rạ mau tàn, chuối chín cây dễ rụng! Mừng cho tác giả còn Mẹ già đại thọ. Quý trọng phẩm chất tốt đẹp của người con trung hiếu: “Thảo thơm phục dưỡng từng ngày”. Câu thơ là tấm lòng của tác giả. Anh thương mẹ bước chân chậm chạp bên thềm và lo lắng, theo dõi từng miếng ăn, giấc ngủ: “Ăn thường nghẹn nuốt khó trôi. Ngủ không tròn giấc, khuyết bồi nửa đêm”. Không phải người con nào cũng làm được điều này. Cảm phục tấm lòng hiếu thảo.

Đi cho thỏa chí trai “Chân con lang bạt mọi miền. Ba lô chật ních nỗi riêng quê nhà”, thương mẹ già như thân cò lặn lội, cõng nắng triền đê, lúc nào cũng đỏ mắt ngóng con. Con giờ tóc đã pha sương: “Hôm nay về lại quê nhà. Sà vào lòng mẹ con đà tóc sương. Mà nghe thơ ấu lạ thường. Đâu đây giây phút thiên đường đời con!”.

Hạnh phúc biết bao nhiêu khi tóc đã bạc được sà vào lòng mẹ, đúng là giây phút thiên đường hiếm hoi.

Bây giờ đã nên ông nên bà: “Nằm nghe lòng mẹ bao la. Con càng nhỏ bé hơn là ngày xưa”. Càng thấm thía, càng thương Mẹ: “Chiều chiều tựa cửa ngó ra. Ngổn ngang bao nỗi – mắt già lại cay”. Phạm Trung Tín đã tròn chữ Hiếu. Nhưng với con cái không bao giờ cảm thấy đã báo hiếu đủ đầy. Mừng anh còn mẹ già để phụng dưỡng. Cầu chúc cho cụ bà mạnh khỏe, để anh còn được chăm chút, nâng niu đến ngoại bách niên!

Người ta thường nói “thơ là người”, với nhà thơ Phạm Trung Tín thì đúng vậy. Đọc hết “Đường chân trời” của anh, ta gặp một trái tim nhân hậu. Từng cảm xúc chân thật. Không phô trương, không vuốt ve phóng đại. Câu chữ giản dị, mộc mạc. Nó chính là cuộc đời của tác giả. Dù có khó khăn, vất vả nhưng vẫn điềm tĩnh, vững vàng, giữ được tình yêu, niềm đam mê trọn vẹn với thơ.

Đ.N.A