Nhân loại đang chứng kiến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với tốc độ phát triển nhanh chóng và chứng minh khả năng kỳ diệu của con người trong chinh phục tự nhiên. Cuộc cách mạng này tác động đến hầu hết các quốc gia, dân tộc; ở tất cả các lĩnh vực và ảnh hưởng đến mỗi con người trên toàn thế giới một cách trực tiếp, sâu sắc. Văn hóa Việt Nam cũng không nằm ngoài sự tác động đó. Do đó, việc khai thông nguồn lực văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta hiện nay.
1. Văn hóa là động lực quan trọng để phát triển đất nước
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ phát triển tri thức, tiến bộ khoa học – kỹ thuật, năng suất lao động, lượng của cải tạo ra, đến các biến đổi cấu trúc của nền hành chính, thể chế quản lý, quản trị đều có sự phát triển với tốc độ theo cấp số nhân. Từ đó, một quốc gia muốn phát triển nhanh, theo kịp tốc độ của các nước tiên tiến thì phải xây dựng được chiến lược thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0.Cách mạng 4.0 chứng minh tri thức khoa học (đặc biệt là tri thức nhân tạo) có sức mạnh mang tính vật chất to lớn cho phép cải tạo thế giới ở trình độ cao, đúng như C. Mác chỉ ra: công cụ nối dài các giác quan con người. Công nghệ sinh học, công nghệ na-nô gắn với nó là sức bền vật liệu ra đời. Nhờ công nghệ thông tin kết nối, mở rộng tầm giao lưu, giao tiếp giữa con người với con người qua mạng in-tơ-nét có xu hướng xóa nhòa ranh giới giữa dân tộc về văn hóa. Văn hóa có tính bản địa, tính dân tộc rất sâu sắc thì hiện nay có nguy cơ bị phai nhạt rất lớn. Việc bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của một quốc gia phải đối mặt với những xu hướng ấy một cách toàn diện, trực tiếp và gay cấn nhất từ trước đến nay. Cách mạng 4.0 khiến bất cứ quốc gia, dân tộc và một cá nhân con người không thể thờ ơ, đứng ngoài “vòng xoáy” của nó. Tuy nhiên, tác động của cách mạng 4.0 không chỉ tạo ra thách thức, mà còn có cả cơ hội, thời cơ lớn. Sự kết nối nhờ thành tựu công nghệ thông tin, kỹ thuật số cũng tạo ra những cơ hội cho tiếp xúc, học hỏi được nhiều ở các nước không chỉ về thành tựu văn minh, mà còn về giá trị văn hóa một cách nhanh chóng.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay, đặc biệt, trước tác động của cách mạng 4.0 là hướng đến mục đích, nội dung nhất quán; bảo đảm được tính dân tộc, giữ gìn “bản sắc dân tộc” một cách vững chắc. Lịch sử ấy đã hun đúc nên một sắc thái văn hóa rất độc đáo, như tinh thần yêu nước; đại đoàn kết toàn dân tộc; nhân đạo, nhân văn; yêu hòa bình,… ở mỗi con người qua các thế hệ khác nhau. Tính dân tộc của nền văn hóa đã thẩm thấu sâu vào cốt cách, tâm hồn, phương thức ứng xử của mỗi con người Việt Nam qua các thời đại và tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, âm mưu đồng hóa về văn hóa của các thế lực thù địch. Trên thế giới chưa có dân tộc nào như Việt Nam bị thống trị cả nghìn năm Bắc thuộc mà vẫn vùng dậy giành độc lập, tự chủ. Giải thích hiện tượng đặc thù này chỉ có thể bằng nội dung, sức mạnh của văn hóa; bản sắc, tính dân tộc của nền văn hóa Việt Nam. Mỗi con người Việt Nam phải xác định rõ trách nhiệm đối với truyền thống dân tộc để tiếp nối lịch sử; luôn vững tin, sáng tạo vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội và tiến lên ngang tầm thời đại. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “…, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn” [1]
Xây dựng nền văn hóa dân tộc Việt Nam trước tác động của cách mạng 4.0 phải thường xuyên củng cố, kiên định với mục tiêu: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thấm nhuần tinh thần dân tộc,… như trong các nghị quyết văn kiện đại hội lần thứ XII, XIII của Đảng xác định. Thấm nhuần tinh thần dân tộc phải được tiếp nhận, chuyển hóa thành thái độ, động cơ, niềm tin, ý chí và hành vi ứng xử của mỗi con người Việt Nam một cách bền vững nhất. Cách mạng 4.0 luôn tạo ra những cái mới, sản phẩm mới, hấp dẫn, lôi cuốn và rất dễ dẫn đến tình trạng “sùng ngoại” không chỉ ở phương diện văn minh, mà còn ở lĩnh vực văn hóa, lối sống, cách giao tiếp, ứng xử… Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng dư luận và xây dựng con người”; “Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ” [2]. Nếu không nhận thức được và không có định hướng, điều chỉnh sớm, khoa học thì mục tiêu về tính dân tộc, bản sắc dân tộc khó có thể thực hiện được. Khi đó, tình trạng mờ nhạt tinh thần dân tộc, thậm chí là quay lưng lại truyền thống lịch sử một cách vô cảm, vô định là không thể tránh khỏi. Quá trình tận dụng cơ hội, tiếp nhận thành tựu văn minh, tinh hoa của cách mạng 4.0 để làm giàu tri thức và tiến lên phía trước là tất yếu, cần thiết, nhưng luôn phải giữ vững cốt cách, tâm hồn, phẩm giá, khí phách con người Việt Nam trong xây dựng nền văn hóa dân tộc. Mỗi con người Việt Nam phải tự nghiêm khắc khắc phục những biểu hiện lệch chuẩn ngay trong bản thân mình, đồng thời phải tích cực đấu tranh phê phán với những biểu hiện lệch lạc trong cộng đồng, xã hội. Quán triệt quan điểm Đại hội XII của Đảng về: “Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” [3]. Nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay một cách thiết thực nhất. Dựa vào định hướng của Đảng về: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [4]. Mỗi con người Việt Nam lấy nó làm tiêu chí, chuẩn mực và điều chỉnh suy nghĩ, hành vi của mình hướng đến mục tiêu: thấm nhuần tinh thần dân tộc. Thống nhất về chuẩn mực giá trị làm tiêu chí đánh giá để tạo dư luận xã hội có tính đồng thuận trong tôn vinh những tấm gương sáng và phê phán những biểu hiện lệch lạc trước tác động của cách mạng 4.0.
Muốn nắm bắt được thời cơ và vượt qua những thách thức để phát triển, tránh tụt hậu xa hơn so với các nước phát triển, thì Việt Nam phải có nguồn nhân lực chất lượng cao thuộc mọi lĩnh vực. Nguồn nhân lực ấy cần có vốn tri thức ngày càng hiện đại; có trình độ tay nghề ngày càng cao và thành thạo trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; có khả năng sáng tạo và phát minh khoa học; biết tiếp thu và thích ứng nhanh với những biến đổi trong các lĩnh vực công nghệ cao; có khả năng đưa ra các quyết sách tầm vĩ mô kịp thời và phù hợp nhất nhằm mục tiêu đến năm 2030 “là nước phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” và đến năm 2045 “trở thành nước phát triển, thu nhập cao” như quyết sách đã được Đại hội XIII của Đảng đề ra. Nguồn nhân lực như thế chỉ có thể có được nhờ một hệ thống giáo dục đổi mới, tiên tiến, biết giữ gìn, kế thừa, phát huy các giá trị nhân văn cao cả và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời biết chắt lọc một cách khôn ngoan những nét tinh túy nhất trong kho tàng văn hóa của nhân loại.
Bởi vậy, thống nhất với những quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, khi đề cập các đột phá chiến lược, Đại hội XIII đã “bổ sung, cụ thể hóa cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới”, đồng thời nhấn mạnh, cần “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt” [5].
Đại hội XIII cũng đã thẳng thắn nhận định, mặc dù nhiệm vụ “phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội”[6], song việc “đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội” [7]. Đặc biệt, Đại hội XIII cũng chỉ rõ: “Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động tầm vóc công cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực”[8]. Liên quan đến vấn đề vai trò của con người và sức mạnh của văn hóa trong sự phát triển đất nước, Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII nêu rõ: “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” [9]. Như vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII rất kỳ vọng vào việc văn hóa sẽ đóng vai trò lớn lao trong “xây dựng con người”, góp phần “phát triển con người toàn diện” để “con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhờ xây dựng chính sách, với việc phát huy lợi thế của dân số vàng, nước ta đạt được nhiều thành tựu về cải thiện nguồn nhân lực. Năng suất lao động của Việt Nam tăng đều qua các năm, cơ cấu ngành nghề đào tạo được điều chỉnh theo ngành nghề sản xuất, kinh doanh, có thêm nhiều ngành nghề mới được đào tạo mà thị trường có nhu cầu, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông đảo, người lao động có cơ hội tiếp cận máy móc thiết bị hiện đại và tác phong lao động công nghiệp… Dù vậy, “nhà chuyên môn kỹ thuật bậc cao, bậc trung của Việt Nam còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao động, mức độ cải thiện không nhiều qua các năm. Tỷ trọng chuyên môn kỹ thuật bậc cao chiếm khoảng 7,2% lao động năm 2020, cả nước có 1.629 tổ chức nghiên cứu khoa học công lập với 141.000 người; 1.961 tổ chức nghiên cứu khoa học ngoài công lập sử dụng hơn 23.000 người lao động. Theo đánh giá của WEF năm 2019, kỹ năng kỹ thuật số của người Việt Nam được đánh giá ở mức điểm 3,8 trên thang điểm 7 (xếp hạng 97), kỹ năng phản biện trong giảng dạy chỉ ở mức 3 điểm trên thang điểm 7 xếp hạng 106 trên 141 nền kinh tế” [10].
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, để nhanh chóng tận dụng thành tựu “đi tắt đón đầu” trong phát triển, yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực Việt Nam là: tích cực, tự giác nâng cao vai trò, giá trị, năng lực bản thân; phải không ngừng học tập, tự giác nghiên cứu. Việc xây dựng và phát triển đội ngũ nguồn nhân lực Việt Nam là một phần quan trọng, không thể thiếu của sự phát triển các nguồn lực của đất nước.
2. Những tác động của văn hóa đến chất lượng nguồn nhân lực
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước tác động của cách mạng 4.0 bắt đầu từ mỗi con người của chúng ta đến toàn xã hội để không cho bất cứ ai, nhất là thế hệ trẻ, rơi vào thế giới “ảo”; lối sống “ảo”,… Cách mạng 4.0 rất dễ làm cho con người bị “thôi miên”, không phân biệt được cái đúng và cái sai; cái tốt và cái xấu; cái thực và cái hư; cái dân tộc và cái phi dân tộc trước thế giới mới, xa lạ, thế giới “ảo”. Kết nối mạng, mở rộng giao lưu và giao tiếp ở tất cả các lĩnh vực, phương diện làm cho con người như lạc vào cõi “mê cung”, khó làm chủ. Đặc biệt sự xuất hiện những hiện tượng mới lạ, như: đồng tiền “ảo”; thanh toán “ảo”; kinh doanh “ảo”, lối sống “ảo” càng kích thích thế hệ trẻ khó có thể thoát ra sự u mê, vô định. Một cá nhân thu mình trong phòng kín, nhưng mở rộng được giao lưu, trao đổi qua mạng làm cho quan hệ, ứng xử có tính “thực” trong môi trường văn hóa cộng đồng, xã hội mờ nhạt dần. Ngôn ngữ giao tiếp, tình cảm cá nhân bộc bạch không bị chi phối bởi cái “tinh tế”, cái chuẩn mực văn hóa, đạo đức và làm cho tính hiện thực, tính tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong bản chất con người. Cách mạng 4.0 có xu hướng pha loãng quan hệ, sự ứng xử văn hóa, đạo đức trong cộng đồng, xã hội và xa cách dần với thuần phong mỹ tục của truyền thống dân tộc. Nhiều thói quen trong nhận thức rất dễ bị thay đổi. Những chuẩn mực giá trị văn hóa, đạo đức được tôn thờ qua nhiều thế hệ cũng có những nguy cơ bị mai một. Con người trong cộng đồng, xã hội dần mất đi nét đẹp trong giao tiếp của “tình làng, nghĩa xóm” có tính “thực” và thay vào đó là quan hệ công việc đơn thuần. Sự giao tiếp rộng, nhưng hạn chế chiều sâu, tầm cao về “tính hiện thực của bản chất con người” và thay vào đó là quan hệ “ảo”.
“Văn hóa chính là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người biểu hiện trong các kiểu, trong các cách thức tổ chức đời sống và hành động của con người, cũng như trong tổ hợp các giá trị vật chất, các giá trị tinh thần cùng các chuẩn mực hành vi do con người sáng tạo ra để điều chỉnh hành vi con người và được tích lũy lại, được làm phong phú thêm trong quá trình con người tương tác với thiên nhiên và trong quan hệ với nhau trong xã hội”[11]. Điều đó có nghĩa là văn hoá chỉ có ở con người và xã hội loài người. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện mới, trước hết phải hướng tới việc giáo dục, đào tạo con người hội tụ được những phẩm chất tốt đẹp, vừa mang đậm nét truyền thống, cốt cách con người Việt Nam vừa phải phù hợp với những yêu cầu của thời đại. Với những khả năng và chức năng như nhận thức và dự báo, giáo dục, thẩm mỹ, giải trí, kế tục và phát triển lịch sử… văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành các phẩm chất, nhân cách ở con người; nuôi dưỡng và phát triển các khả năng của con người; góp phần ổn định và thúc đẩy sự phát triển xã hội. Từ những chức năng của mình, văn hóa có thể tác động đến chất lượng nguồn nhân lực, thể hiện ở nhiều mặt đó là:
Văn hóa tác động đến việc xây dựng nguồn nhân lực trên các mặt lao động, khả năng dự báo, thúc đẩy việc phát huy năng lực cá nhân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục đến khoa học – công nghệ, v.v… Tất cả những mặt ấy đều dựa trên một nền tảng học vấn vững vàng, trình độ ngày càng cao, phù hợp với xu thế của thời đại.
Văn hóa đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong định hướng cho các cá nhân và xã hội, nhất là thế hệ trẻ, hướng đến những giá trị cốt lõi Chân – Thiện – Mỹ trong truyền thống nhân văn của dân tộc ta, đồng thời nâng các giá trị ấy lên ngang tầm thời đại, phù hợp với những yêu cầu của thời đại; văn hóa có khả năng khơi dậy tính năng động, khả năng sáng tạo của con người trong xu hướng phát triển văn hóa nói chung, chất lượng nguồn nhân lực nói riêng; xây dựng con người có phẩm chất về tư tưởng, lý tưởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt là nhân cách văn hóa và khát vọng, đáp ứng những đòi hỏi của CMCN 4.0 cũng như công cuộc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay và trong tương lai; văn hóa ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò chức năng điều tiết các mối quan hệ của con người với chính bản thân mình, con người với môi trường tự nhiên và con người với cộng đồng xã hội. Hay nói cách khác, chức năng điều tiết của văn hóa thể hiện ở sự tác động đến quá trình điều chỉnh và tự điều chỉnh từ nhận thức, hành vi đến mọi hoạt động của mỗi người và của cả cộng đồng trong xã hội.
Theo số liệu thống kê “đến năm 2019, Việt Nam có khoảng 7,3 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, tăng hơn 2,6 triệu người so với năm 2015. Kết quả này cho thấy, đội ngũ nguồn nhân lực Việt Nam đã tăng thêm khoảng 2,6 triệu người so với 10 năm trước khi ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW (1999 – 2009). Ngoài nguồn nhân lực trong nước, có khoảng hơn 400.000 người nguồn nhân lực Việt kiều (trong đó có hơn 6.000 tiến sĩ và hàng trăm nguồn nhân lực tên tuổi được đánh giá cao) trên tổng số hơn bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nguồn nhân lực trẻ ở Việt Nam (tính từ độ tuổi 45 trở xuống, tốt nghiệp từ cao đẳng trở lên) chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng số đội ngũ nguồn nhân lực cả nước. Tính đến năm 2015, Việt Nam có 4,28 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 24.300 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ; độ tuổi bình quân là 38,5. Tuy nhiên, hơn 60% tiến sĩ đã ở độ tuổi trên 50; trên 21% ở độ tuổi 40-49; độ tuổi 30-39 là 16% và 2,8% là độ tuổi 20-29. Tỷ lệ nữ có trình độ đại học trên toàn quốc chiếm 36,24%; thạc sĩ: 33,95%, tiến sĩ: 25,69%. Từ 1980 tới 2017, sau 26 đợt xét, cả nước hiện có 10.774 GS, PGS trong đó có 1.715 GS và 9.059 PGS. Độ tuổi trung bình của GS là 57,13; của PGS là 50,88. Tỷ lệ GS, PGS là nam chiếm đa số tới 83,5%, nữ giới chiếm 16,5%.
Trong những năm gần đây, cơ cấu nguồn nhân lực đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tính đến cuối năm 2019, cơ cấu lao động theo trình độ được đào tạo đã tăng cao. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học tăng nhanh, từ 17,9% năm 2014 lên 19,4% năm 2019, cao đẳng tăng từ 4,9% lên 7,95%. Tỷ trọng lao động được đào tạo từ đại học trở lên trong những ngành dịch vụ cao hơn so với ngành sản xuất”[12].
Trong khi “Số doanh nghiệp tham gia nghiên cứu trong lĩnh vực KHCN hiện nay chiếm tỷ trọng gần 9%, tỷ trọng này có khuynh hướng gia tăng, tuy nhiên, tỷ trọng doanh nghiệp làm việc trực tiếp liên quan đến nghiên cứu khoa học và phát triển chỉ khoảng 351 doanh nghiệp, con số quá ít so với quy mô trên 560 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả kinh doanh tại Việt Nam hiện nay. Sự phát triển thị trường CMCN 4.0 phụ thuộc vào chi cho hoạt động đổi mới sáng tạo thông qua R&D. Trong khi đó chi cho hoạt động R&D trong tương quan của Việt Nam năm 2019 chỉ 0,4% GDP so với con số 3,3% GDP của Nhật Bản, 2,2% GDP của Singapore, 2,1% GDP của Trung Quốc. Tại Hàn Quốc, chi cho hoạt động R&D hiện nay chiếm đến 4,2% GDP, số bằng được áp dụng thương hiệu vượt cả Nhật Bản với 4378 sáng chế/triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 29.891 USD (năm 2019)” [13].
Do vậy, đối với Việt Nam việc huy động sự tham gia của khu vực tư nhân trong chi cho hoạt động R&D là hết sức cần thiết trong bối cảnh 4.0.Sự phát triển manh mún, nhỏ lẻ của các doanh nghiệp Việt Nam và cấu trúc ngành nghề hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó có cơ hội chen chân vào những ngành nghề do 4.0 đem lại.Thách thức đối với Việt Nam sẽ rơi vào chính bẫy lợi thế nhân công giá rẻ và phát triển các lợi thế trước mắt để phát triển các ngành nghề thuộc các lĩnh vực truyền thống so với các ngành thuộc 4.0 rủi ro cao. Các định chế trung gian trên thị trường KHCN hoạt động thiếu bài bản, quy mô nhỏ lẻ không kết nối được cung – cầu thị trường. Một ví dụ là, hiện nay các hội chợ triễn lãm gian hàng KHCN diễn ra nghèo nàn về hình thức tổ chức, thu hút ít doanh nghiệp, trường, viện nghiên cứu tham gia.
3. Một số giải pháp bảo tồn, phát huy văn hóa trong phát triển nguồn lực hiện nay
Một là, sự biến đổi văn hóa của các dân tộc, quốc gia là tất yếu trong quá trình giao lưu, hội nhập. Mức độ biến đổi phụ thuộc vào chính sức mạnh văn hóa và nội lực quốc gia. Nếu có sức mạnh nội sinh lớn thì sự tiếp biến văn hóa diễn ra trên thế chủ động, nếu yếu tố nội sinh yếu, thì sự tiếp biến bị động, các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc dễ bị mai một, thậm chí bị đồng hóa về văn hóa. Thực tiễn quá trình tiếp biến văn hóa qua nhiều thời kỳ cho thấy, một số cái bị cho là “biến đổi”, thậm chí “mất đi” (một số nét văn hóa truyền thống), nhưng nếu nhìn nhận ở một khía cạnh khác thì đó chính là sự phát triển, bởi những di sản thực sự là bản sắc văn hóa các dân tộc trên thực tế sẽ không dễ bị mai một mà luôn có sự vận động, phát triển.
Hai là, Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước tác động của cách mạng 4.0 phải được tổ chức thực hiện với tính chất của một phong trào quần chúng sâu rộng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Sức mạnh trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam phải có tính tổng hợp với sự tương tác có tính đồng thuận, cùng chung một hướng và trở thành phong trào quần chúng sâu rộng, thực tiễn toàn xã hội. Toàn bộ các sáng tạo của con người Việt Nam trên các lĩnh vực đều phải dựa trên cơ sở và hướng đến làm giàu giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam thì văn hóa mới thật sự trở thành nền tảng tinh thần xã hội. Kể cả những người Việt Nam sinh sống, học tập, nghiên cứu ở nước ngoài, tham gia ngày càng sâu các bước phát triển của cách mạng 4.0, nhưng vẫn phải hướng về cội nguồn để luôn mang tầm hồn, cốt cách, khí phách của con người Việt Nam.
Ba là,những năm gần đây, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Sự thay đổi trong văn hóa, lối sống là không tránh khỏi, vấn đề là cần hướng sự thay đổi đó theo xu thế tích cực; cần nhìn nhận và tận dụng sự phát triển của các thành tựu khoa học – công nghệ như một điều kiện thuận lợi cho việc lưu giữ, phát triển và truyền bá các giá trị văn hóa dân tộc ra thế giới.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước tác động của cách mạng 4.0 phải kết hợp giữa định hướng nhận thức với tổ chức các hoạt động mang ý nghĩa, giá trị văn hóa, đạo đức; phù hợp với thuần phong, mỹ tục một cách sát hợp để giáo dục con người giữ vững phẩm giá, tư chất, bản chất dân tộc Việt Nam trước tác động của cách mạng 4.0.
Bốn là, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược và các lĩnh vực then chốt không chỉ cần có “phông kiến thức” đa dạng, sâu rộng mà còn phải có tầm nhìn chính trị trên nền tảng văn hóa chính trị. Tri thức văn hóa, trong đó có kiến thức về địa lý, lịch sử cùng những bài học đã được tích lũy trong văn hóa dân tộc là yếu tố căn bản để nguồn nhân lực cấp chiến lược chủ động, tích cực “nhất biến ứng vạn biến” trước các tình huống bất ngờ hoặc khó khăn không lường trước được. Những tri thức đã được đúc rút, tích lũy khi chuyển hóa thành tình cảm yêu nước chân chính sẽ tạo nên động lực to lớn giúp vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, thúc đẩy sự phát triển.
Năm là,nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta càng cần phải chú trọng đến văn hóa, trước hết là văn hóa kinh doanh; đưa văn hóa thấm sâu vào mọi hoạt động kinh tế, giúp con người nhận thức được trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội; biết tôn vinh cái đúng, cái tốt, cái đẹp; biết trân trọng những giá trị cao thượng, nhân văn. Do vậy, văn hóa quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại là điều mà các doanh nhân, người đứng đầu doanh nghiệp muốn thành công và vươn xa cần phải có. Trong đó có việc sử dụng một cách hợp lý, khoa học nguồn nhân lực, phát huy tốt nhất khả năng sáng tạo của con người chứ không chỉ dừng ở cung cách tổ chức sản xuất, kinh doanh đơn thuần.
Sáu là, cũng như đa số các quốc gia, dân tộc trên thế giới, những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam đều bắt nguồn từ nền tảng xã hội và lịch sử dân tộc; kết tinh từ hàng ngàn năm cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động, kiên cường chiến đấu chống ngoại xâm và xây dựng đất nước trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính vì vậy, việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực đất nước trong tình hình mới phải luôn được củng cố “bắt đầu lại” từ những giá trị văn hóa và truyền thống vô cùng quý giá của dân tộc. Đó là tinh thần cộng đồng dân tộc, ý chí tự lập tự cường, là đức tính kiên trì, cần cù, “chịu thương chịu khó”, sáng tạo trong lao động. Với đức tính khoan dung, bao dung, vị tha; tôn sư trọng đạo, ham học hỏi, không chùn bước trước khó khăn; dễ dàng hòa nhập, biết “dung nạp” chọn lọc những giá trị mới của thời đại.
Bảy là, hơn bao giờ hết, những giá trị văn hóa trở thành “chất xúc tác” để “điều hòa” những điều “thái quá bất cập” trong nền kinh tế thị trường hiện nay (như tình trạng tôn sùng quá mức giá trị tiền bạc, vật chất). Một cộng đồng, một xã hội có văn hóa phải bắt đầu từ những con người có văn hóa. Một thể chế, chính sách, chủ trương đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của con người, tiệm cận được những giá trị văn hóa… được xây dựng trên cơ sở nguồn nhân lực có nền tảng văn hóa và chất lượng thời đại. Suy cho cùng thì nguồn nhân lực chất lượng cao cũng chính là những “hiền tài của quốc gia”. Một “hiền tài” phải hội tụ được những tiêu chí cơ bản: có trí tuệ, năng lực, phẩm chất đạo đức và nền tảng văn hóa vững chắc. Trí tuệ, năng lực, phẩm chất sẽ làm cho văn hóa tỏa sáng, nghiên cứu, ban hành chế độ, chính sách đối với đội ngũ trí thức.
Tám là, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng và ban hành chế độ, chính sách phù hợp về vật chất và tinh thần đối với đội ngũ trí thức là kinh nghiệm có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển nguồn lực văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Đãi ngộ vật chất và tinh thần là những động lực quan trọng để kích thích lao động sáng tạo, cũng như tạo điều kiện cho đội ngũ nguồn nhân lực tích cực, chủ động nâng cao trình độ, năng lực của bản thân. Đồng thời, việc trọng dụng, đãi ngộ vật chất và tinh thần xứng đáng còn thể hiện ở sự tôn vinh và sự đánh giá công bằng của xã hội đối với họ. Đãi ngộ về vật chất bao gồm: tiền lương, thưởng, phụ cấp và các thu nhập khác (nhuận bút, thù lao giảng dạy, nghiên cứu khoa học…).
Tóm lại, trong tình hình mới, phát huy vai trò của văn hóa nói chung và các giá trị văn hóa truyền thống vẫn luôn là một “sự đảm bảo” và có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo, xây dựng con người thuộc các lĩnh vực, từ chính trị đến kinh tế – xã hội… Do đó, văn hóa cần phải thường xuyên được củng cố, bồi đắp, phát huy trong việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, góp phần làm cho “con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” [14] như Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.
Theo Trần Cao Anh/Văn hóa Nghệ An
Tài liệu tham khảo:
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 124
(2), (3), (4)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 127, 125, 127
(5) (6) (7) (8) (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr.54, 65, 82-83, 84, 115-116.
(10), (13). Nguyễn Thắng, bài kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động đến Việt Nam” năm 2020.
(11) Nguyễn Trọng Chuẩn: Văn hóa ứng xử ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra, Tạp chí Triết học số 7/2020, tr.19-28.
(12). Bộ Khoa học và Công nghệ, Báo cáo về Cách mạng công nghiệp 4.0, tháng 4/2019, Hà Nội.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, tr. 47.