Sáng màu Tết xưa – Tạp bút của Đan Thanh

109

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nguyên nhớ lại cả một thời thơ ấu xa cách làng quê ra tỉnh học, vào buổi sáng muộn thứ bảy cuối tuần những ngày giáp Tết, sau lễ đưa Táo quân về trời báo cáo lại tin tức ở trần gian, Nguyên thường hẹn các bạn học tại nhà trọ bên bờ sông Cái Khế cùng nhau về quê nghỉ Tết.

Bầu trời cao lồng lộng trong xanh, mượt mà tráng gương như được quét sạch bởi cơn gió đông hắt hiu se lạnh từ con sông Hậu mênh mông, xao xác thổi về hơn mấy tuần qua. Với túi sách vở trĩu nặng và quần áo lủ khủ bên hông, anh em bè bạn, mặt mày hí hởn, lũ lượt kéo đi một đoàn như bầy vịt chạy đồng.

            Băng qua khỏi chiếc cầu sắt Cái Khế cũ kỷ, màu đen bạc thếch với mưa nắng thời gian và tang thương binh lửa còn lại từ thời thực dân, chẳng mấy chốc, anh em bè bạn Nguyên cảm thấy hồi hộp đi qua cầu Sáu Thanh bằng gỗ, cao chông chênh để bước vội về bến bắc Cần Thơ. Ngày ấy chưa có chiếc cầu thế kỷ Cần Thơ nối nhịp đôi bờ sông Hậu như hiện nay, mỗi lần muốn qua sông, không đi đò ngang đôi khi nguy hiểm vì sóng to gió cả, Nguyên phải đi phà mất hơn tiếng đồng hồ. Nhưng ở trên phà bồng bềnh qua sông, cảm giác dễ chịu trước không khí trong lành mát mẻ, tai nghe sóng vỗ lách tách mạn phà, Nguyên có dịp thả hồn thơ phiêu lãng: Thành phố lên xuân cả bốn mùa/ Mai đào không đợi sắc hoa phô/ Lưng trời chưa có bầy chim én/ Xuân cũng theo về năm ngón thơ (thơ Nguyễn Thanh). Hoặc Nguyên trầm tư vẩn vơ trước cảnh trời rộng sông dài. Hậu giang vào xuân là con sông thơ, đẹp như một dải lụa màu, long lanh ánh dương hồng giữa những hòn tiểu đảo xanh um thủy liễu: Tiểu đảo mấy hòn xanh thủy liễu/ Trường giang một dải rợp ngư thuyền // Một dải trường giang khoe nước biếc/ Mấy hòn tiểu đảo gợi hồn thơ (thơ Ngũ Lang).

          Chiếc phà cao to, hai tầng, chở nặng hành khách và xe cộ gầm gừ như con hà mã, lừ đừ cặp bến Bình Minh, thả anh em Nguyên, hành khách và xe cộ lên bờ. Xế trưa, trời đứng bóng, Nguyên và các bạn thả bộ dọc theo con hương lộ mặt đường còn lởm chởm đá núi và đất nung, lẹp bẹp đi về phía chợ Tân Quới, nơi có mấy cây sao cổ thụ cao lênh khênh cạnh đình làng.

Dọc con đường quê, Nguyên cảm thấy trong lòng dậy lên niềm vui ấm áp khi nhìn nhà cửa, cảnh vật hai bên trong những ngày cuối chạp đã bắt đầu nhuốm lên màu Tết. Những vỉ bánh tráng dựng lớp lớp trước sân phơi, những nia bánh phồng, sàng chuối khô hương thơm ngào ngạt nằm san sát trên mái nhà bắt đầu quyến rũ đàn chim trao trảo sáng chiều không ngớt vần vũ bay quanh. Trong không gian trong sáng chờ xuân, dọc đường, Nguyên thỉnh thoảng bắt gặp chủ nhà những gia đình khá giả, đang lo quét vôi lại nhà cửa, chuẩn bị đón chào xuân mới.

***

            Ba mẹ vui mừng khi nhìn lại khi thấy Nguyên về đến nhà rồi tiếp tục công việc. Ba trở ra sân cúc cúc, kíp kíp gọi bầy gà vịt cho ăn suất chiều để lùa vô chuồng. Mẹ Nguyên ở góc nhà sau đong mấy lít nếp tốt, chuẩn bị gói bánh tét cúng ông bà. Chị ba Nguyên bên chiếc cối đá ngoài hiên nhà, đang lo xây bột làm bánh trong khi chị tư đang ngồi lặt một rỗ củ hành kiệu tươi rói hăng hắc hương nồng chuẩn bị làm dưa chua đón Tết.

             Nguyên gác tạm lại việc sách đèn sang một bên để lo dọn dẹp nhà cửa cùng với cac thành viên trong gia đình. Việc thóc lúa ruộng đồng coi như các chị đã giải quyết xong, mấy cái đìa to đậm đặc cá tôm ngoài ruộng, các chị Nguyên cũng đã tát cạn, bắt cá rọng vào khạp từ mấy ngày qua. Sáng sớm hôm sau, Nguyên phải sang nhà bác Năm nhắc các anh họ chuẩn bị giở đống chà lớn bên cây cầu dừa dưới triền sông, lấy cá chia cho bà con cùng sử dụng trong các ngày Tết. Thời gian lơi bớt công việc, Nguyên lãnh phần thay thế các chị, lau chùi mấy bộ lư đồng trên bàn thờ ông bà, tổ tiên, và sử dụng cây chỗi cán dài, quét sạch bụi bặm, mạng nhện bám trên trần nhà.

Trước ngày ba mươi Tết, công việc ở quê dập dồn nhiều thứ. Có đêm, các anh họ rủ Nguyên ra đồng cắt những bụi nếp vừa quá thời ngậm sữa đem về rang trong chảo lớn, sau đó đem ra cối quết làm cốm dẹp. Nguyên rất thích đêm đêm được xem các anh giả cốm dẹp hoặc quết bánh phồng. Tiếng chày ba cụm cùm cum giả nếp làm cốm dẹp hoặc tiếng chày gỗ nện bình bịch vào khối nếp to nấu chín trong cối làm bánh phồng, tạo nên một âm vang quen thuộc đậm hồn dân tộc, quê hương trong những đêm thanh vắng ở nông thôn ngày trước.

Ban ngày, mẹ Nguyên ngồi bên ngoài hiên nhà tráng bánh cho chị Ba đặt bánh vào vỉ mang đi phơi bên ngoài. Chị Tư Nguyên lo ép chuối, phơi khô để làm mứt. Thằng Tý em trai Nguyên o bế lại mấy chiếc lọp, nò đi bắt cá dưới sông hay ngoài ruộng. Các buổi tin sương không ra vườn. Ba Nguyên dành thì giờ chăm sóc cho mấy chậu hoa mai, hoa tử kinh để trưng bày vui nhà trong mấy ngày xuân. Buổi trưa rảnh rang công việc nhà, ba Nguyên  thong dong vừa hút thuốc vừa săn sóc mấy chú chim cu xinh xắn để ban ngày nghe tiếng gáy cúc cu vui vui của chúng. Mấy con gà cảnh sắc lông sặc sỡ cũng được ba Nguyên đặc biệt chăm sóc để ban đêm được nghe tiếng gáy dõng dạc báo thức ò – ó – o sảng khoái của chúng.

         Trong không khí mát mẻ ngày vào xuân ở làng quê xưa, cứ bắt đầu vào hạ tuần tháng chạp, dưới sông bắt đầu xuất hiện rộn ràng mấy chiếc ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm Kohler chạy khắp làng trên đó có những người xem ra không phải là người trong làng. Họ chính là nhân viên gánh hát đi cổ động cho chương trình hát Tết của đoàn. Ngồi trên chiếc ghe trên mui treo phất phơ lá cờ biểu tượng của đoàn hát, họ gióng trống dập dồn, phát loa inh ỏi, quảng cáo cho đoàn hát đang đóng đô tại nhà lồng chợ xã để biểu diễn phục vụ công chúng mộ điệu cải lương trong những ngày Tết sắp đến.

***

          Màu Tết ở quê Nguyên thực sự thể hiện rõ nét bắt đầu từ thời điểm đưa ông Táo về trời. Trước đó một hôm, đã có mấy em nhỏ chạy lăn xăn ngoài đường hô to: Cò bay, ngựa chạy, đưa ông Táo về trời đây hoặc chịu khó đến từng nhà mời mua loại vàng mã vẽ đủ các hình thù nghuệch ngoạc để đốt trong lễ đưa tiễn Táo quân về trời. Trên các nẻo đường vào thôn xóm bắt đầu xuất hiện một số người ham vui lén lút chơi bầu cua cá cọp, xí ngầu lác hay gầy sòng bạc đỏ đen sát phạt nhau, thường không tránh khỏi xảy gây gổ cãi lộn, đôi lúc dẫn đến đánh nhau. Nhóm thanh niên này thì tổ chức đá gà ăn tiền trong một bãi sân rộng khuất sau một lùm cây rậm, trong khi một nhóm người khác bày tiệc nhậu nhẹt, rồi mày chén tao chén, ly cạn ly đầy, lắm khi cũng dẫn đến chuyện không hay giữa anh em cùng trong một chiếu rượu. Ba Nguyên bản tính hiền lành chất hác suốt đời chỉ biết lam lủ làm ăn, không thích rượu chè đen đỏ. Ba Nguyên trải nghiệm được cái hại khôn lường của những người quá chén nên anh em trong nhà theo gương cha, không ai là đệ tử của Lưu Linh, một đời chỉ biết lo học hành, làm ăn.

Không khí mừng xuân đón Tết ở nhà Nguyên mỗi năm chỉ kéo dài trong thời gian một tuần mặc dù trong nhà ai nấy cũng chuẩn bị sẵn mọi thứ từ sau ngày 23 tháng chạp âm lịch.

           Trước đêm trừ tịch hai hôm, cũng như bao nhiêu gia đình khác ở  làng quê, ở nhà Nguên bao nhiêu công việc xem như đã chuẩn bị chu đáo cho mấy ngày đầu quan trọng nhất trong năm. Tin sương ngày 30 Tết, theo lời nhắc nhở của ba Nguyên, các chị đã lo đủ một mâm ngũ quả gồm các loại trái cây tốt là được, không quá rập khuôn theo lề thói ước lệ phải tìm mua cho đúng các loại trái: Cầu (mãng cầu) – Sung – Dừa – Đủ (đu đủ) – Xoài, 5 thứ trái cây biểu tượng cho cụm từ mang ý nghĩa tốt đẹp ngay từ đầu năm mà người ta hay nói tếu cho vui miệng: Cầu sung vừa đủ xài.

***

           Đêm trừ tịch ở quê ngày xưa có phần yên ắng, không giống bầu trời sáng lòa với những vầng pháo hoa nổ lụp bụp trên bầu trời và tiếng ca hát rộn ràng từ máy phát thanh ở thành phố thời hiện đại. Không gian ngày Tết nơi thôn bản tĩnh lặng hơn với sinh hoạt ngầm trong phạm vi ấm cúng giữa các thành viên ruột thịt gia đình. Ba Nguyên vốn là một ông đồ nặng hồn thơ, mỗi năm có truyền thống tống cựu nghinh tân (tiễn cũ đón mới) bằng ít vần thơ. Đêm trừ tịch, ngay sau thời điểm thiêng liêng nhạy cảm nhất của năm mới, năm nào ba Nguyên cũng ăn mặc đàng hoàng, ngồi vào bàn viết. Bên bình trà nóng mới pha và gói thuốc lá bình dân, ba Nguyên bắt đầu viết lời khai bút đầu năm bằng một bài thơ tứ tuyệt. Bài thơ này được coi là thông điệp đầu năm của tác giả và cũng là lời chúc lành tốt đẹp, gởi cho bạn bè, bà con khi gặp gỡ, thăm viếng nhau trong những ngày xuân. Nơi một góc ngoài hiên nhà, các chị Nguyên đang cẩn thận cho thêm củi vào chiếc lò đất, chăm sóc, nồi bánh tét to kềnh đang sôi sùng sục trên ngọn lửa phập phùng như muốn quét sạch bóng tối của một đêm không trăng, thỉnh thoảng vọng lại từ xa mấy tiếng gà gáy sớm hay tiếng chó sũa đêm báo hiệu sang khuya.

           Ở quê Nguyên ngày xưa, mùng một Tết được coi là ngày đoàn tụ chính thức của gia đình, ít ai đi ra khỏi nhà. Trường hợp con cái lớn đã trưởng thành có gia đình ra riêng, ở xa thì hôm ấy phải về thăm cha mẹ cho phải đạo: Mồng một Tết cha. Dù vậy, mọi người trong nhà vẫn ăn mặc đẹp, bánh trái, trà nước chuẩn bị đầy đủ sẵn sàng trên bàn như đang sắp sửa đón khách quý. Với Nguyên, là con trai cả trong nhà, nên có bổn phận đến viếng nhà bác ruột nơi xóm trên để mừng lạy ông cố, sau đó tặng quà cúng Tết.

           Ngày mồng hai, theo truyền thống gia đình, anh em Nguyên ăn mặc đàng hoàng, có thể bắt đầu xuất hành đi thăm lần bà con, bè bạn gần xa. Ba Nguyên vốn kỹ tính, dè dặt nên luôn nhắc nhở, dăn dò con cái trong nhà trước khi đi đâu trong những ngày đầu năm. Bởi lẽ, trong những ngày đầu năm thiêng liêng, sự hiện diện tại nhà người khác thầm mang ý nghĩa đi xông đất, ngoài y phục phải đàng hoàng, sáng sủa, mọi người phải cẩn thận nhất cử nhất động, luôn giữ gìn cả lời ăn tiếng nói. Mục đích sao cho thể hiện được trí tuệ và nhân cách của mình để làm vui lòng những người thân trong khoảnh khắc tốt đẹp đầu năm để lấy hên cho cả năm . Thiện ý ba Nguyên muốn nhắc ước nguyện thanh cao của người xưa: Khởi đầu tốt đẹp, mọi điều về sau sẽ được suôn sẻ (Nguyên trinh hanh thông).

Buổi sáng mồng ba, lúc mấy con chim trao trảo ngoài vườn mận nhà sau báo hiệu bằng mấy tiếng lảnh lót trong trẻo rất vui tai, đánh thức cả nhà, thì ba mẹ và các chị Nguyên đã tỉnh táo thức dậy chuẩn bị công việc theo thông lệ.

             Nhúng nước sôi, đem ra nhổ sạch lông gà xong, ba Nguyên đặt phần thân gà trần trụi như nhộng vào nồi cháo đang sôi sùng sục trên bếp lửa bập bùng và giữ lại cặp chân gà. Không khí gia đình ấm áp với sinh hoạt rộn ràng của ngày mới đầu năm vẫn tiếp nối. Như đã thành lệ, năm nào ba Nguyên cũng không quên giữ lại đôi chân gà với những ngón cong quắp tội nghiệp rồi ngắm nghía. Vui vui vẻ mặt, nheo nheo đôi mắt đã nhuốm hình dấu chân chim hai bên khóe, sau tròng kính lão, ba tôi thao thao bất tuyệt không khác nào một chiêm tinh gia lão luyện hay nhà phong thủy tài danh… khiến cả nhà Nguyên phải đầu hàng người gia chủ vô điều kiện! Ngày ấy, dù đã học sang đệ Nhất cấp, Nguyên vẫn tỏ ra ngây thơ ngờ nghệch, không biết đã dựa trên cơ sở nào ở cặp chân gà khẳng khiu co quắp mà ba Nguyên đã thao thao bất tuyệt như thế!

           Mồng ba tết thầy, với lời lẽ dịu dàng khuyến khích, ba mẹ Nguyên không quên nhắc nhở con cái phải đến viếng thăm đủ thầy cô ngày trước đã dạy dỗ và thầy cô còn dạy hôm nay. Ngày xưa, không mấy khi học trò có hiếu bày tỏ lòng biết ơn thầy cô bằng hình thức gởi tiền trong bao thư mặc  dù có thực dụng như thời hiện đại kim tiền như hôm nay.

              Yêu thương kính trọng, ý thức được công lao dạy dỗ của thầy cô, vào ngày những mùa Tết năm xưa, tùy theo hoàn cảnh, học trò ngày xưa chỉ biết âm thầm biểu lộ lòng tri ân với những người mình đã mang nặng ơn sâu. Học trò ngày xưa chỉ mang tặng thầy cô con gà, con vịt hộp sữa ký đường với cung cách lễ độ và lời chân tình biết ơn thốt ra từ sâu thẳm trái tim mình.

Đ.T