Sự giống và khác nhau giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ truyện

16433

Lê Xuân

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nếu như “giai điệu”, “âm thanh” là ngôn ngữ của âm nhạc; “màu sắc”, “đường nét” là ngôn ngữ của hội họa; “mảng, khối” là ngôn ngữ của kiến trúc, thì “ngôn từ” là chất liệu của tác phẩm văn học. Hình tượng văn học là hình tượng ngôn ngữ. Mắc-xim Gorky (nhà văn Nga) đã nói: “Ngôn ngữ là yếu tốt thứ nhất của văn học”. Nhà thơ Lê Đạt gọi các nhà thơ là “phu chữ”. Trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn về Sự giống và khác nhau của ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ truyện. Từ đó có thể giúp ta lựa chọn từ ngữ để đưa vào bài thơ cho đúng lúc, đúng chỗ nhằm chuyển tải được những cảm xúc, ý nghĩ của mình đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.

Nhà phê bình văn học Lê Xuân

Một bài thơ hay không dễ gì ta cảm nhận được ngay, có khi chỉ bằng linh cảm mà nhận ra. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên tưởng ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, hương thơm man mát bên trong hình tượng thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ: Thơ là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trông bằng mắt thường được, chỉ có thi nhân trông thì mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon…  Hay như Sóng Hồng (cố TBT Trường Chinh) viết: Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Vì vậy để hiểu được bài thơ hay, viết được bài thơ hay nhà thơ không thể không khổ công đi tìm ý, tứ, câu, chữ và bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ.

Như chúng ta đã biết văn học được chia làm 3 thể loại: thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học). Riêng loại thơ văn xuôi, và truyện thơ vừa có các yếu tố của thơ vừa có các yếu tố của truyện. Giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ truyện vừa có sự giống nhau lại vừa có sự khác nhau. Chúng đều được gọi chung là “ngôn ngữ văn học”.  Ngôn ngữ văn học có 3 đặc trưng cơ bản là tính chính xác, tinh luyện, tính hình tượng và tính biểu cảm.

  1. Sự giống nhau:

Cả thơ và truyện đều dùng chất liệu chính là ngôn ngữ để xây dựng tác phẩm. Trong kho tàng ngôn ngữ vô cùng phong phú của toàn dân, nhà thơ hay nhà văn lựa chọn những từ ngữ cần thiết nhất để đưa vào tác phẩm. Đó là quá trình khổ luyện, tìm tòi, tích lũy vốn sống… mới có được những chữ “thần” để có thể “lóe sáng” lên ở câu thơ, câu văn làm cho tác phẩm “nổi gió”, “cất cánh”. Nhà thơ Nga Mai-a-côp-ski đã viết:

Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ

Mới thu về một chữ mà thôi

Những chữ ấy làm cho rung động

Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.

Song, do đặc trưng của mỗi thể loại trữ tình hay tự sự mà ngôn ngữ văn học được các tác gỉa sử dụng khác nhau.

2. Sự khác nhau:

Đối với truyện, do nhà văn phải xây dựng nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình nên việc miêu tả ngoại hình, nội tâm nhân vật, bối cảnh xã hội… thường phải cụ thể qua nhiều tình tiết, mâu thuẫn. Ở mỗi đoạn, mỗi chương lại có sự phát triển tâm lý nhân vật một cách trực tiếp hay gián tiếp. Số câu chữ có thể giãn ra hay co lại theo ý dồ tác giả. Nhưng nhìn chung là nó không có sự cô đúc như từ ngữ thơ ca.

Ví dụ: Khi miêu tả bộ mặt một tên quan huyện không thiện cảm (dân ta thường gọi là “Quan phụ mẫu”), Nguyễn Công Hoan viết:

Quan phụ mẫu là người có nhiều cái đặc biệt. Đứng trước ngài ta có cảm tưởng hỗn xược như phải ăn một mâm cỗ đầy ăm ắp những thịt mỡ khi ta đã no nê. Nghĩa là ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi mặt xuống, cả tấm thịt trên quai hàm bị cổ áo là cứng, nó đùn lên, nó vẽ nên một nếp nhăn chia má ra làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phinh phính và nung núc những thịt. Cái tấm má ấy đầy đặn đến nỗi, giá chỉ một mũi ghim nhỏ nhỡ đụng vào là có thể chảy ra hàng lít nước nhờn nhờn mà ta quen gọi là mỡ. Lông mi ngài rậm và vòng lên đối với đôi mắt hùm hụp cong xuống. Từ thái dương đến chung quanh miệng ngài người ta tưởng mặt ngài làm bằng cứt sắt vì nó đen đen. Nhưng không, đấy chỉ là di tích của một bộ râu quai nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo. Ngài đặt lên đầu một vòng khăn không xứng đáng vì đối với cái bộ mặt vĩ đại ấy nó phải nhiều nếp hơn. Nó đai quanh đầu ngài một cách rất chướng như cái đai quanh thùng gỗ đựng nước mắm. Tất ai trong mặt trận dân chủ cũng phải vô phép ngài ấn thật mạnh đằng sau xuống cho nó trùm nốt gáy…?

Nguyễn Du miêu tả bộ mặt rất mập và xấu của Tú Bà – trùm nhà chứa:

Nhát trông nhờn nhợt màu da

Ăn gì to béo đẫy đà làm sao.

(Truyện Kiều)

Ban zắc trong tác phẩm “Ơ-giê-ni Grăng-đê” đã miêu tả rất hay tâm lý của cô Ơ-giê-ni khi chớm yêu cậu em họ Sác-lơ:

Trong cuộc đời trong trắng của các cô thiếu nữ bỗng đến một lúc cõi lòng bừng đón ánh nắng và tiếp nhận nỗi niềm tỉ tê của hoa lá. Lúc ấy sự sống dào dạt dâng lên con tim phập phồng làm hòa tan mọi ý nghĩ và niềm thèm khát mơ hồ. Cái giờ phút ấy là giờ phút bâng khuâng thơ ngây và vui mừng thấm thía. Khi đứa trẻ nhìn thấy sự việc thì nó mỉm cười. Khi cô thiếu nữ nhận thấy yêu đương chớm nở trong lòng, thiếu nữ cũng mỉm cười như thời thơ ấu. Như nói: ánh sáng là mối tình đầu trong đời người thì tình yêu không phải là ánh sáng trong lòng người sao?

Cũng viết về nỗi rung động đầu đời, nhà thơ Xuân Diệu lại có cách diễn đạt khác:

Con đường nho nhỏ gió hiu hiu

La lả cành hoang nắng trở chiều

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

Lần đầu rung động nỗi thương yêu. 

(Thơ duyên)

3. Đặc trưng ngôn ngữ thơ:

Khác với văn xuôi, thơ ca chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và xã hội cũng như những điều thầm kín trong tâm linh con người (TS Hữu Đạt).

Do vậy, ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ chính xác, hàm súc, giàu hình tượng, biểu cảm và giàu sức tưởng tượng. Các yếu tố đó hòa quện vào nhau tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm góp phần tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ. Nó biến hóa qua nhiều sắc thái ảo thực bất ngờ, thú vị.

a- Tính chính xác (hay còn gọi là tính tinh luyện, hàm súc):

Mỗi từ ngữ trong câu thơ phải diễn tả được đúng điều mà nhà thơ nhìn thấy, cảm thấy và những điều sẽ thấy. Lựa chọn được một từ ngữ “đắt” để diễn đạt một ý không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Trong một trường liên tưởng của từ ngữ có nhiều từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa…, người viết cần liệt kê vài từ để chọn. Tản Đà đã suy nghĩ rất nhiều khi chọn từ “khô” để đưa vào câu thơ: Non cao những ngóng cùng trông/ Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày (Thề non nước). Nếu thay từ khô bằng từ tuôn, hay từ trôi thì hiệu quả sẽ như thế nào?

Hay từ “ép” trong câu: Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan là một “nhãn tự” (mắt chữ) trong bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Nguyễn Du là bậc thầy về dùng từ ngữ chính xác trong Truyện Kiều:

Ghế trên ngồi tót sổ sàng (Hoài Thanh, bình: chỉ một từ tót thôi, Nguyễn Du đã giết chết tên Giám Sinh họ Mã).

Hay: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào.

Hoặc Đại quân đồn đóng cõi đông/ Làm cho động địa kinh thiên đùng đùng (8 phụ âm đ), tạo cảm giác như có tiếng súng nổ.

Cũng có khi những từ ngữ trong câu thơ là những hư từ hoặc từ địa phương, từ khẩu ngữ rất bình thường nhưng được đặt đúng vào vị trí câu thơ thì nó vẫn tỏa sáng, diễn tả được đúng ý định của nhà thơ, khắc họa rõ nét nhân vật trữ tình.

Ví dụ: bài Tiếng Nghệ của Nguyễn Bùi Vợi hay bài Nhớ của Hồng Nguyên, từ địa phương chiếm một tỉ lệ cao. Đó là các từ như trong nớ, tớ, lũ, o, ni, lắc lắc, rẻ viền, ví chắc, bây chừ, cái cươi, chộ, kha, nhỡi, sèm, đọi, trôốc... Điều này các nhà thơ sẽ học tập được nhiều ở ca dao – dân ca  (Vd: Gió đưa buồn ngủ lên bờ/ Mùng qua có rộng cho bậu ngủ nhờ một đêm).  Nói tính chính xác của từ ngữ trong thơ ca có khi mang tính tuyệt đối, có khi chỉ là tương đối (Những con số thực và ảo trong văn chương – LX).

b- Tính hình tượng:

 – Hình tượng:  Là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, được nhận thức trực tiếp bằng cảm tính (chung cho các loại hình nghệ thuật).

 – Hình tượng văn học: Là bức tranh sinh động nhất của cuộc sống được xây dựng bằng ngôn ngữ nhờ có trí tưởng tượng và óc sáng tạo và cách đánh giá của nhà nghệ sĩ.

– Hình tượng thơ: Là bức tranh sinh động và tương đối hoàn chỉnh về cuộc sống được xây dựng bằng một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ có vần điệu với trí tưởng tượng sáng tạo và cách cảm nhận của nhà thơ.

Từ đó ta thấy được ngôn ngữ mang tính hình tượng là ngôn ngữ gợi hình cụ thể. Nhà thơ không nói bằng phạm trù của tư duy lô-gic như trong các môn khoa học tự nhiên mà thông qua hình ảnh cụ thể để diễn đạt những ý niệm trừu tượng.

Ví dụ:

Ước ao có một gian nhà

Có trưa đưa võng đón bà lên chơi.

(Em đi – Lê Đình Cánh)

Đó là ước mơ của một cô giáo vùng núi cao mong có nhà, có con để đón bà lên bế cháu, đưa võng trưa hè. Nói một cách khác là ước mơ được làm vợ, làm mẹ. Cũng ở bài thơ trên, tác giả đã nói tới sự xót xa của các cô khi tuổi của xuân đã mòn phai:

Ở rừng tự hát ru nhau

Lá trầu chị héo quả cau em già.

Lá trầu, quả cau là biểu tượng cho hôn nhân hạnh phúc, nhưng ở đây lá trầu héo, quả cau già. Tất cả đã quá lứa lỡ thì, tuổi xuân đã quá “đát”.

Hay ở bài thơ Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ Đồng Đức Bốn đã có liên tưởng như các cô vẫn còn sống đâu đây giữa cỏ cây, hoa lá:

Cầm cỏ thì thấy mồ hôi

Cầm đất thì thấy dấu môi vẫn hồng

Sông La tóc sóng  bềnh bồng

Cầm mây, áo gái chưa chồng còn thơm.

Tố Hữu viết về bốn mùa (đông, xuân, hè, thu) ở Việt Bắc bằng ngôn ngữ giàu tính họa (có người gọi đây là bức tranh tứ bình):

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Khương Hữu Dụng viết Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Hành quân qua đèo Hải Vân) tạo cảm giác như ta vừa bước từ bóng tối ra ánh sáng, thật sung suớng. Nguyễn Duy trong bài Lời ru đồng đội viết:

Ngủ hầm, ngủ võng, ngủ bưng

Gối đầu tay ngủ cầm chừng mỗi đêm

Có người ngủ thế thành quen

Đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình.

Nguyễn Bính so sánh mái tóc dài của thiếu nữ khá độc đáo” Tóc em dài như một tiếng chuông ngân. (chuyển từ quan sát bằng thị giác sang thính giác). Hay Trần Đăng Khoa cảm nhận được âm thanh rất nhẹ của chiếc lá đa rơi trong bài Đêm ngủ ở Côn Sơn: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng… (chuyển sự cảm nhận từ thính giác sang thị giác). Tất cả những câu thơ trên đều gợi liên tưởng, tạo hình tượng khá rõ. Nếu không có trí tưởng tượng kỳ diệu thì khó mà viết được những câu thơ  như thế. Để có được những từ ngữ “lóe sáng” đó, ngoài vốn từ vựng phong phú, nhà thơ còn phải biết kết hợp các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, điệp từ, tượng trưng, nói quá, nói giảm… trong cách diễn đạt.

Ví dụ: Bài thơ Hỏi của Xuân Diệu có tới 16 dấu hỏi tu từ. Nhà thơ tự hỏi mình và câu trả lời đã hàm chứa trong mỗi câu hỏi:

Một năm thêm mấy tháng rồi?
Thu đi, đông lại, bồi hồi sắp xuân?
Gặp em, em gặp mấy lần?
Tưởng quen mà lạ, tưởng gần mà xa?

Ai làm cách trở đôi ta?
Vì anh vụng ngượng, hay là vì em?
Trăng còn đợi gió chưa lên?
Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?

Hằng ngày em nói bao lời?
Với cha, với mẹ, với người chung quanh?
Với đường phố, với cây xanh?
Sao em chưa nói với anh một lời?

Tương tư ăn phải miếng mồi?
Đứng đi trên lửa, nằm ngồi trong sương?
Phải duyên, phải lứa thì thương?
Để chi đêm thẳm ngày trường, hỡi em?

c Tính biểu cảm:

Là sự bộc lộ cảm xúc trực tiếp hay gián tiếp qua mỗi từ ngữ thơ. Đó là các cung bậc: ái, ố, hỉ, nộ của lòng người. Khi nghe tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã thốt lên: Bác Dương thôi, đã, thôi rồi/ Nước mây man mát ngậm ngùi lòng ta. (Khóc Dương Khuê). Các hư từ: thôi, đã, thôi rồi làm tăng dần cấp độ thương xót, nó như một tiếng thở dài, nén nỗi đau vào tim. Nhà thơ Vũ Cao đã nói hộ người chiến sĩ nỗi đau xé ruột gan khi nghe tin sét đánh – người yêu mất:

Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói

Núi vẫn đôi mà anh mất em!

(Núi Đôi)

Chế Lan Viên viết về nỗi nhớ một cách trực tiếp thật đẹp qua một loạt hình ảnh so sánh trùng điệp gợi trường liên tưởng rộng:

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

(Tiếng hát con tàu)

Ở một bài khác, ông lại bộc lộ nỗi nhớ sâu lắng hơn, trăn trở và da diết hơn:

Anh nhớ em như đất liền xa cách bể

Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em

Em thân thuộc sao thành xa lạ thế

Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm.

Xuân Quỳnh lại rất nhỏ nhẹ, đầy nữ tính khi bộc lộ cảm xúc với Trái tim đập những điều không thể nói. Trong bài Sóng, chị viết về nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp, chỉ nói với lòng mình thôi về một tình yêu vĩnh hằng chung thủy: Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ…/ Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức… để rồi cùng đọng lại nỗi nhớ là: Hướng về anh một phương.

Xuân Đam trong bài Mưa ngâu giãi bày nỗi thất tình: Muốn sang không bắc được cầu/ Trái tim người khác làm đau ngực mình.  Nhà thơ Lê Anh Xuân sau bao năm xa cách, khi khi Trở về quê nội thấy bao vẻ đẹp của những cô du kích, giao liên, đã thốt lên cùng nhân vật trữ tình:

Em ơi, sao tóc em thơm vậy

Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng?

Ta yêu giọng em cười trong trẻo

Ngọt ngào như nước dừa xiêm

Yêu dáng em đi qua cầu tre lắc lẻo

Dịu dàng như những nàng tiên

Em là du kích, em là giao liên…

Nguyễn Đình Thi diễn tả nỗi đau lớn của đất nước bị tàn phá: Ôi, những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều (Đất nước). Hay Bùi Văn Bồng ngợi ca vẻ đẹp nền nã của cô gái Nam Bộ: Hết tiền thiếu gạo đi vay/ Chưa nhìn thấy áo nửa ngày đã mong…. Dòng sông thì rộng mênh mông/ Aó em lại thắt eo hông làm gì/ Khen ai khéo chiết đường ly/ Để cho tà áo thầm thì lời quê (Áo bà ba).

Tính biểu cảm của ngôn ngữ thơ trước hết phải xuất phát từ xúc cảm chân tình, dào dạt của nhà thơ. Việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh để biểu đạt chỉ là phương tiện, là chất liệu. Nếu cố tạo ra niềm vui hay nỗi buồn giả tạo thì chỉ đánh lừa được những người không có năng lực thẩm định văn chương.

Tóm lại:

Đọc bài thơ hay, câu thơ hay ta như không còn thấy câu chữ nữa. Cái hay nằm trong sự giản dị. Nếu cố làm duyên làm dáng, điểm phấn tô son, đánh bóng ngôn từ sẽ sa vào xu hướng “vị nghệ thuật” thuần túy. Mây gió, cỏ hoa xinh tươi đến đâu hết thảy cũng đều từ trong lòng người nảy ra (Ngô Thời Nhậm). Nguyễn Du nói: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Có xúc cảm tốt, tìm được tứ thơ mới lạ nhưng nếu vốn ngôn ngữ nghèo nàn thì khó có được thơ hay. Có thơ hay toàn bài, có thơ chỉ hay ở một câu, một chữ.

Song, có một điều không ai chối cải là chất liệu đầu tiên, duy nhất để làm nên bài thơ là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu đời của dân tộc (Bác Hồ). Mỗi nhà thơ sẽ có cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn ngữ toàn dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào bài thơ. Và thơ ca khi trở lại với con người và cuộc sống sẽ góp phần làm cho tiếng Việt ngày thêm giàu có, trong sáng.

Sau cùng, tôi xin phép đọc lại một đoạn thơ trong bài Tiếng Việt của cố nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ để kết thúc bài viết nhỏ này:

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói

Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ

Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa

Óng tre già và mềm mại như tơ.

 

Tiếng tha thiết nói thường như hát

Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh

Như gió nước không thể nào nắm bắt

Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ

Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn

Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá

Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình.

L.X

Tài liệu tham khảo:

1- Nghìn câu thơ Tài hoa trẻ – (Nguyễn Vũ Tiềm – NXB Văn học, 2000)

2 – Ngôn ngữ thơ Việt Nam (TS Hữu Đạt- NXB KHXH, 2000)

3 – Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca (Văn Công Hùng- NXB KHXH, 1983)

4 – Thơ – hành trình và tiếp nhận (Mã Giang Lân – NXB Đại học Quốc gia, 2004)

5 – Phân tích ngôn ngữ, hình ảnh, hình tượng và nhạc tính văn chương (Trần Nguyễn Anh Tuấn – NXB Đồng Nai, 1999)

6 – Thơ ca- ngôn ngữ, tác giả và tác phẩm (Lê Anh Hiền- NXB Giáo dục, 2002)

7- Tiếng nói tri âm (NXB Trẻ- 2 tập – 1996)

8- Thơ- Bốn phương cùng bình (Nhiều tác giả- NXB Văn học, 2000)

9- Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học (GS Phan Trọng Luận- NXB Giáo dục, 1983)

10- Thơ và cách bình thơ (GS Lê Trí Viễn – NXB Giáo dục, 1987)

11- Thơ với lời bình (Vũ Quần Phương – NXB Giáo dục, 1997)

12- Thơ chọn với lời bình (Nhiều tác giả- NXB Giáo dục, 1997)

13- Cơ sở  Lý luận văn học (Nhiều tác giả- NXB Đại học và THCN, 1983)

14- Một số tập thơ , tuyển thơ (chung và riêng) của các tác giả…

15- Tục ngữ, ca dao, dân ca (Vũ Ngọc Phan- NXB KHXH, 1978)

16- Tự điển văn học (2 tập- NXB KHXH, 1984)