Sương Nguyệt Minh & Miêu linh

1000

14.10.2017-00:30

Nhà văn Sương Nguyệt Minh

 

>> Không đợi mùa, hoa súng

>> Về làng – truyện ngắn

>> Ám ảnh của “người lính lạc rừng”

 

Miêu linh

 

TRUYỆN NGẮN CỦA SƯƠNG NGUYỆT MINH

 

I.

NVTPHCM- Canh tư.

 

Trời lạnh. Trăng suông, nhạt. Sương dày đặc, loãng dần bay bồng bềnh ngoài cánh đồng. Gò đống hiện ra, ẩn mất. Gió dưới sông nổi lên, hun hút thổi vào hang hốc chồn, cáo, mèo hoang. Cánh đồng Miêu Linh hoang vắng, dài ra, rộng hơn, xa rợn. Đêm thiêng mênh mông, hoang sơ.

 

Ở mom sông, căn lều đơn độc nơi đất bãi, sông nước, sương gió hồng hoang. Đột nhiên, con miêu kêu khủng khiếp. Eo…eo…eo… Não nùng. Hoang dại. Lập tức, tấu lên rất nhiều tiếng eo… meo… âm… âm… u… u… nhỏ hơn, xa vắng trong gió khuya. Hệt tiếng mèo hoang ở bãi tha ma, ở gò đống ngoài cánh đồng Miêu Linh vẳng lại. Dàn hợp âm tiếng gió, tiếng mèo như quái, như ma kêu khóc xuyên vào sâu thẳm vọng về. Mới đầu nghe đã thấy lành lạnh gáy, sởn gai ốc da gà. Sau càng lắng càng thấy rờn rợn.

 

Con miêu vọt lên xà lều. Hai mắt như hai hạt bi ve phát quang xanh lét, phóng trong tối tăm, quét đi quét lại. Rồi nó chui qua hồi lều, hít, ngửi. Nó chiếu hai hạt bi ve lên cây, rồi lại đảo xuống đất. Một đồng loại của nó đang bị treo cổ trên bẫy. Thân thẳng duỗi, bất động, lạnh cứng. Dưới cái lỗ tròn sâu như cái lon sữa bò là cái đầu cá rô nướng còn nguyên. Khen khét. Tanh. Rờn rợn rờn rợn mùi chết chóc. Con miêu lại kêu. Thực ra lần này là tiếng gào. Gào gấp gáp run rẩy và quyết liệt như để cho đồng loại biết. Để rồi ngoài xa lại rộ lên… ắng đi… chìm dần trong đêm. Xa xôi, tiếng hoang dã đồng vọng.

 

Bất chợt người đàn bà giật mình. Một hơi gió lạnh lọt qua khe liếp. Hồn ma mèo, tiếng rắn hút gió, bước chân người đuổi lởn vởn trong đầu chị như ở quanh đây, như ở đâu đó ngợp xa. Người đàn bà gặp lại mình nơi hoang dã xa vợi.

 

Bốp. Bàn tay mụ quản bếp hằn đỏ năm vệt trên mặt chị: “Đồ ăn hại. Hỏng việc của tao rồi”. “Nó đẹp. Tôi xem, lỡ tay kênh nắp lồng”. “Còn cãi hở”. “Chị không phải bà chủ. Biết thế này tôi cứ ở quán cơm bụi cho rồi”.

 

Phựt… phựt… Hai hàng cúc áo đứt tung. Xoạc. Vạt áo trước rách toạc. Một khoảng vai trần và vết móng tay xước dài trên ngực chị. “Khốn nạn! Tao còn hơn bà chủ. Lớ xớ vào bếp làm gì?”. Chị im thít, kéo vạt áo rách, ôm chặt tay che ngực. Nỗi oan ức, tủi nhục làm chị khóc tức tưởi. Cô Tâm nấu bếp vỗ về chị: “Thân phận làm thuê có ra cái gì đâu. Cắn răng mà chịu, cháu ạ”. Con miêu đã vọt lên cửa sổ bếp. Quay đầu lại, nó nhìn chị như biết ơn, như ân hận. “Làm khỉ gì thế. Định đuổi hết khách của tôi đi à”. “Anh xem nó đánh xổng con miêu”. Ông chủ vào bếp, đứng chắn trước mặt chị. Ông nuốt nước bọt đánh ực. Ông dán mắt vào ngực chị: “Chết cha tôi rồi. Khách đặt ươm mãi mới được con mèo tam thể chửa. Người ta đến, lấy mèo bao tử hầu họ. Mà mẹ cha cái bọn! Ăn tàn bạo”. Cô Tâm nấu bếp người thấp đậm, có vẻ thương chị dúi cho cái áo cũ. Chị len lén vào góc khuất thay áo. Ông chủ the thé quát thằng Ben, thằng La nhử con miêu chửa. Ông bảo: “Không nhử được thì đánh què nhốt lại”.

 

Con miêu dường như cảm nhận được cuộc săn đuổi mới. Nó vọt nhanh qua cửa sổ, lao xuống vườn. Trèo thoăn thoắt lên cây nhãn, nó ngoe nguẩy ria, nhìn. Nhồm nhoàm, ngả ngớn, các vị khách đang ẩm thực đồng loại nó ở các phòng trên tầng, ở các bàn bày rải rác dưới gốc cây khắp vườn.

 

Nó nhìn thấy ông chủ xách cái lồng sắt ở trong gông một con mèo bạch, để lên mặt bàn bằng gốc cây cưa phẳng đặt ngay trước tán lá cây nhãn. Ông chủ xoay gông đẩy cái chốt lên cao. Khi cái chỏm đầu con mèo trắng nhô khỏi lỗ tròn ở đỉnh lồng, ông chốt chặt lại. Bốn thực khách mặc com lê màu tối ngồi bết lên bốn cái ghế cũng bằng gốc cây cưa phẳng chầu quanh lồng mèo.

 

Chát. Dùi đục phang mạnh. Eo. Mèo trắng vẫn kịp gào lên một tiếng. Thân mèo co rút, giật giật. Cả bốn thực khách cười hô hố. Ộc, ộc. Rượu tràn ly.

 

“Mẹ kiếp! Mưa”. Lắc rắc những hạt bụi nhỏ rơi xuống bát nước chấm, rơi xuống đầu khách. Lành lạnh ở gáy, tóc nhơm nhớp. Vị khách mặt chuột, người nhỏ thó ngước nhìn lên vòm lá: “Nước đái mèo. Trời ơi!”. Ông ôm mặt. Ông dụi mắt. Ông đau nhức. Con miêu phi ngay xuống đất, phóng vèo đến góc vườn. Dường như nó sợ quá vãi đái hoặc phản ứng bản năng tức thì sự dã man với đồng loại.

 

Tối hôm sau, tối hôm sau nữa, nhà hàng đặc sản tiểu hổ đóng cửa sớm. Lại có ba vị khách quần áo hầm hố bụi bặm đến. Gã râu quai nón chống nạnh, vênh vênh mặt: “Ai thèm lấy lại tiền. Quân tử nhất ngôn”. Ông chủ bảo: “Chỉ tại chú. Chú nhặt nó ở hàng cơm bụi gán cho tôi nên mới ra nông nỗi này”. “Tại đếch gì tôi”. Gã râu quai nón cáu: “Tôi làm phúc. Tưởng nhà ông cũng cần người lắm chứ”. “Người cũng đang cần. Nhưng…”. “Thôi. Lằng nhằng bỏ mẹ. Cho ăn rắn bao tử cũng được. Này! Con bé nhà quê ấy xinh ra phết, chửa chừng chưa bị phá trinh. Ông thế nó thay con miêu chửa bị sổng. Coi như huề”. Gã bên cạnh bảo: “Chuyện làm ăn đấy. Nửa đêm đưa nó lên. Không đùa đâu”. Rồi chúng cười ông ổng. Chúng không thèm nghe nói thêm nửa lời. Chúng kéo ông chủ lên tầng năm. Chúng ăn nhậu và bàn công chuyện mờ ám. Chỉ có trời biết được.

 

Đã ba ngày đêm, chị tìm cách thoát khỏi nhà hàng có vườn cây hoang dã ở ngoại ô. Hầu như mỗi lần có cơ hội thì cái mặt lì lợm của thằng Ben, thằng La lại hiện ra. Còn ban đêm, chị bị vây bởi những bức tường cao và cái cổng khóa im ỉm. Ở đây chị sợ tất cả. Sợ ông chủ, sợ thằng bảo kê, mụ quản bếp, sợ rắn, sợ chuột… Nhưng ám ảnh, hãi hùng nhất là căn phòng bà chủ ở dãy nhà ngang về ban đêm. Căn phòng ấy không sáng, không tối. Cửa sổ chỉ he hé để vừa đủ ánh sáng nhờ nhờ chiếu vào từ vườn cây. Ở góc khuất nhất, xa ngôi nhà năm tầng và cửa khóa lạnh băng như để trốn, kẻo khách ăn vào nhầm.

 

Sáng, trưa, tối và đêm, bốn bận chị phải mang cơm nước vào hầu bà chủ. Lúc khác cần, bà bấm chuông. Đang làm gì, chị cũng phải bỏ, chạy đến để bà chủ sai bảo. Bà chủ nằm liệt, hố mắt trũng sâu, trắng dã, mặt lì, ít nói. Cô Tâm nấu bếp kể: “Một đêm giông gió. Cây đổ vật vào bể nuôi rắn. Chúng sổng chuồng túa ra khắp vườn, rúc vào gầm cầu thang, chui vào gầm giường. Một con rắn răng vẫn còn rất sắc nhằm vào chân bà chủ mà bổ. Ga rô ngay, hút máu, uống thuốc kịp. Bà chủ không chết, nhưng chân bị rắn cắn cứ teo dần. Bà nằm bẹp, đành phải để nhà hàng tiểu hổ cho chồng và chị quản bếp lo liệu”. Chị thoáng rùng mình, nhớ lại những lần xoa bóp mình mẩy cho bà chủ. Cái mỏm bị cắt cụt đang tím dần, thịt chết, bẹo vào không thấy đau.

 

Đêm chầm chậm vào sâu. Chị vẫn chập chờn, chập chờn trong giấc ngủ nông. Con miêu từ xó xỉnh nào đó len lén qua khe cửa sổ, chui vào cuộn tròn bên nách chị. Ấm, mềm và nhồn nhột. Chị mơ màng. Chị giật mình: Đã đến giờ ăn đêm của bà chủ.

 

Trời hơi lạnh. Sương mù mịt vườn cây. Trên tầng năm, cửa sổ phòng nhậu vẫn sáng mờ mờ. Bếp còn đỏ lửa. Một con rắn hổ mang nhốt sẵn trong lồng mây đan mắt cáo ngóc đầu thôi miên lửa. Một con mèo vặt sạch lông, trắng ởn nằm sõng sượt trên nền gạch hoa. “Tôi đang thiu thiu ngủ ông chủ dựng dậy làm thêm cho khách ở tầng năm. Cháo của bà chủ đây”. “Cô múc ít thôi. Hôm nay bà chủ thấy mình khó ở”. Cô Tâm nấu bếp thì thầm: “Này. Cô bảo này, ở đây như hang hùm nọc rắn. Cháu liệu mà giữ lấy thân”.

 

“Đây rồi. Ớ giời ơi!”. Ông chủ chắn ngay trước mặt chị. Nồng nặc mùi rượu, mùi tanh tưởi: “Cô mang chai rượu này lên tầng năm cho khách”. Chị líu ríu chân tay. Tai ù đi. Đầu mụ mẫm, muốn quỵ. Bát cháo nóng trên tay chị trào ra. “Eo!”. Con miêu ở trên cây đột nhiên kêu như gào, như vực chị dậy. “Tôi cho bà chủ ăn đêm”. “Biết rồi. Xong phải lên ngay. Khách đang chờ. Cầm lấy chai rượu này”. Nói nhát gừng, ông chủ ấn cái chai vào tay chị. Bóng ông loang loáng về nhà tầng.

 

Ánh điện yếu ớt nhòe nhoẹt. Khu vườn rộng, tối sáng nhập nhòa. Bóng chồn, cáo, trăn, kỳ đà, gấu… nhồi đầy bụng trấu ngồi im ỉm ở gốc, leo nguềnh ngoàng trên cây, bò trên hòn non bộ… Vừa ma quái vừa hoang dã. Chị bước, những bước chân vô lối. Chị lạc đến góc vườn. Chị ngã, dúi vào bể rắn. Rắn thức, nhốn nhào ngóc đầu dậy mổ cục cục vào thành bể, vào nắp lưới mắt cáo. Chị giật nảy người lùi sang bên va phải chuồng mèo. Con trụi lông, con xước mặt, sứt mũi, nằm chen nhau nhung nhúc trong chuồng. Không kêu,  gào, chúng đờ đẫn, vô cảm với thân hình chị, với bóng chị phủ lên chuồng. Gần đó, hai cái ô tô chở mèo, rắn, ba ba lên biên giới đã đóng hàng từ chập tối đậu sát cổng hậu, đổ bóng đen thẫm.

 

Lõm bõm. Lõm bõm. Rồi lộc cộc… Chị quay lại. Chị nghển người. Chị ngồi bệt xuống. Từng con, từng con chuột chùi chũi dưới ống cống ngầm chui lên. Con nọ nối đuôi con kia lốc nhốc. Mũi đỏ, đít đỏ, lông xám, mốc thếch, lại có con cụt đuôi. Chúng ghếch mõm. Chúng thao láo mắt nhìn chị. Chúng tản ra, dò dẫm trên nền cỏ đầy sương, bò trên bàn ăn, tìm những mẩu thịt, miếng xương còn sót lại. Chúng bò qua bụng, nghếch mõm, vênh váo nhìn cáo, trăn, mèo… nhồi trấu… Đêm, vườn cây đầy tiếng lộc xộc, chít chít lẫn tiếng gió hút ở miệng cống ngầm.

 

Bát cháo chỉ còn một nửa, chị lách người vào phòng bà chủ. Chị không tin ở mắt mình. Trong ánh điện yếu vàng ệch, chị nhìn thấy lũ chuột đang gặm cái chân gỗ đặt bên giường bà chủ. Một con chui vào trong, chỉ còn thấy cái đuôi lấp ló thò ra. Ba bốn con nữa châu đầu vào mỏm chân teo của bà. Đít đỏ, trụi lông, chổng lên, đầu chúng chúi xuống gặm gặm. “Bà ơ… ơi..!”. Chị hét lên. Choang. Độp. Bát cháo và chai rượu rơi xuống nền nhà. Lũ chuột túa ra, lộc xộc chạy lên bụng, lên mặt bà chủ lọt ra ngoài cửa sổ. Cùng lúc con miêu vút qua hông chị, lao theo ra vườn cây. Bà chủ giật thót ú ớ kêu không thành tiếng. Bà nhìn cái mỏm chân cụt đã teo chuột gặm nham nhở, xương chìa ra trắng hếu. “Mèo… thả mèo ra”. Bà gào. Thảng thốt. Cồn cào… vọng vào đêm vắng.

 

Rậm rịch chạy. Láo nháo kêu. Chị ào ra vườn cây. Ông chủ ở trên tầng xuống. Thằng Ben ở cổng lớn chạy vào. Cô Tâm nấu bếp chạy lên. Vấp phải chị, cô kéo tay áo lại: “Mấy thằng ở lầu năm nó làm gì cháu? Cô biết ngay mà”. “Khô…ông. Chuột ăn bà chủ”. Chị ngọng líu rồi câm lặng. “Trời ơi! Thoát ra cổng hậu mau”. Cô nấu bếp đẩy chị đi. Chị leo. Chị trèo. Chị ra khỏi vườn cây ngập sương và bóng tối. Chị chạy ra con sông ngoại ô. Chị vấp, ngã, tay quờ phải con miêu đang chạy theo. Chị bế nó lên. Chị cứ ngược triền sông mà chạy. Chạy…

 

Mông lung. Ám ảnh. Rợn ngợp. Người đàn bà lại thấy mình bị săn đuổi trên cánh đồng hoang. Hổn hển. Gấp gáp. Thình thịch. Như ma lùa, như tiếng chân người đuổi. Chị nghiến răng. Chị cắn vào môi xem mình còn là người hay ma. Đau. Chị trấn tĩnh: “Thần hồn nát thần tính. Xa lắm rồi. Chúng làm sao mà đuổi được”. Dụi mắt. Căng mắt. Đồi Bạch Bát đang ở phía trước mặt. Hai bên là bãi tha ma và cánh đồng Miêu Linh. Ánh đèn lấp loáng, lấp loáng, quét trên năn lác, trên lúa dài đã uốn câu bị cắn gãy gục. Một bóng người đen thẫm nhấp nhô, nhấp nhỏm. Chị bủn rủn chân tay: “Chết con rồi… Cha ơi”. Tiếng kêu không thoát ra khỏi họng.

 

Bõm. Lõm bõm… như chuột chạy, như mèo hoang săn mồi. Chuột thật. Chuột túa ra lổn nhổn, nháo nhào. Chị chạy va phải chuột. Chuột húc vào chân chị. Phựt. Vút. Mũi tên bay khỏi nỏ, xé gió lao đi. E… eo… Tiếng mèo hoang trúng tên kêu rất thảm. Eo… Con Miêu cũng gào lên, phóng khỏi tay người đàn bà. Hồn bay. Vía bay. Người đàn bà đổ kềnh.

 

Rụp. Lưới cạn bung ra. Chụp xuống. “Cứu tô… tôi”. Yếu ớt, lọt thỏm vào gió lạnh. Tối tăm mặt mũi, tóc tai rũ rượi, người đàn bà bất tỉnh.

 

Đèn ló lại lấp lóa. Mắt con miêu bắt đèn loe lóe. Cánh nỏ lại căng, giương lên. Con miêu lùi dần, lùi dần. Phóc. Miêu vọt qua đám lưới bùng nhùng. Người đàn ông giật nảy mình. Lùi một bước. Rồi bước lại gần. “Khốn khổ chưa. Lài ơi. Sao đến nông nỗi này”.

 

II.

Người đàn ông đốt lửa. Lửa bừng sáng. Lửa chiếu rõ cả phía trước người. Lửa sinh ra bóng đen phía sau của người.

 

Đêm hoang ấm dần. Người đàn ông cảm nhận thấy sự bất ổn, sự khốn cùng của người đàn bà, của mình, của cái gì đó còn mơ hồ… Anh nhìn người đàn bà nằm nghiêng. Miên man. Thảng thốt. Động lòng trắc ẩn, ký ức vụt dậy. Người đàn ông bắt gặp hồn vía người đàn bà trên cánh đồng hoang ngày nào.

 

Máu chảy một vệt ra đùi non của chị, đỏ tươi. Chị run rẩy, nhưng vẫn cố nói:

 

– Không được thế. Tôi kêu bây giờ.

– Nằm yên.

– Nhưng tôi nhột lắm.

– Muốn chết à.

 

Người đàn ông ngoạm vào đùi chị. Chụt. Chụt…

 

– Máu của cô rất mặn.

– Anh làm ơn nhanh lên. Cha tôi tới giờ đó.

– Mặc.

 

Hai bàn tay chỉ có chín ngón sất xíu, sần sùi, mốc thếch. Lại đặt lên đùi chị. Vuốt. Vuốt. Vuốt từ háng xuống, vuốt từ bắp chân trần trắng mịn vấy bùn lên. Dồn máu. Quây máu. Bóp. Nặn. Rồi người đàn ông nhai, nhai rau ráu một loại lá không tên. Nước, bã đắp lên đùi chị. Cảm giác ấm, mềm dưới bã lá cây, dưới bàn tay cóc cáy của người đàn ông. Một phút sau, đùi chị tức tức, tê tê. Bàn chân nặng chịch.

 

– Từ nay đi qua chỗ lội đừng xắn quần cao.

– Làng tôi con gái đều vậy.

 

Chị nằm nghiêng, chân co chân duỗi. Hai bắp chân, hai cái đùi trần trắng nõn nà bên bờ cỏ.

 

– Cứ nằm yên thế. Một lúc tháo ga rô. Nhớ giữ cái dây thắt rút trả tôi.

 

Chị nhìn thấy một rớm máu tươi đọng ở cằm, ở môi người đàn ông.

 

– Anh ghê thật.

 

– Tôi không làm thế nọc độc chạy lên tim, lên óc. Cô không chết thì cũng phải tháo khớp háng.

 

– Eo ơi!

 

– Thật đấy. Lúc khẩn cấp phải khoét luôn chỗ da thịt bị cắn. Nó mà đớp vào ngón chân ngón tay nào của mình là phải chặt luôn ngón ấy. Đây cô xem. Ngón tay cái này bị rắn lục cắn hôm đi bắt ở núi Bạch Bát. Viên thuốc mang theo rơi đâu mất, ở quanh cũng không thấy lá thuốc. Tôi đành phải kê ngón tay lên đá… chặt.

 

Chị rùng mình, nhắm mắt:

 

– Anh giải nghề đi. Kinh lắm. Nhiều người đã phải bỏ. Anh không sợ phải chặt cụt dần hết ngón tay.

 

– Vì miếng cơm manh áo thôi…

 

Chị quay lại nhìn. Con rắn bị đập gãy lưng gần đó, lưỡi đen, dài thia lia. Nó cố toài đi nhưng không dịch chuyển được, đầu cứ quay sang bên nọ, đảo bên kia. Ớn lạnh, người đàn bà rùng mình.

 

Chị không trả cái dây rút cho người đàn ông. Nửa như hàm ơn, nửa như quyến luyến. Chị khỏa chân xuống chỗ lội. Chị gột bùn. Chị thả ống quần. “Tôi phải đi thôi. Tôi chịu ơn…”. “Đừng nói nữa”. Người đàn ông cắt lời chị: “Cô đi đâu. Sắp sang chiều rồi. Thân gái một mình…”. “Anh đừng ngăn. Kẻo cha tôi đuổi kịp, tôi không nỡ đi. Lỡ việc”. Chị vắt tay nải lên vai. Rồi chị đi. Chị qua cánh đồng Miêu Linh. Chị xuôi triền sông về phố tỉnh. Chị đi về phía hoàng hôn.

 

Hớt hải chạy. Hốt hoảng gọi. Ông già lội uồm uồm qua chỗ lội. Ông sững sờ. Ông ngạc nhiên. Người đàn ông ngồi lặng, ngồi ngẩn ngơ nhìn chấm đen đang mờ dần ở phía cuối triền sông. Ông giơ cao phảng. Ông lại hạ xuống. Ông đã nhìn thấy con rắn bị gập khúc. Người đàn ông quay lại.

 

– Sư phụ.

 

– Lại là anh à? Coi chừng kẻo rắn cắn nhiều, ăn lá thuốc lắm, là giọng the thé thành hoạn quan đấy. Đôi bàn tay hỏng rồi. Tôi phí công truyền nghề cho anh.

 

Người đàn ông tóm đầu con rắn. Anh nhét cái lá không tên vào miệng nó, rồi bỏ vào giỏ:

 

– Con rượt cả trưa nay, nó vượt sông sang cánh đồng này. Nó cắn cô Lài nhà ta ngay chỗ lội đây. Sư phụ ơi! Con phải dùng gậy đập là sự chẳng đành.

 

– Trời ơi! Con gái tôi.

– Sư phụ truyền nghề thế nào, con cứu như thế. Nhưng cô ấy đi rồi. Sư phụ nhìn kìa.

 

Ở cuối triền sông chấm đen mờ dần, mất hút. Choáng váng. Đau đớn. Ông già ngồi bệt xuống bờ cỏ. Đừng bỏ cha, Lài ơi. Ông không muốn khóc nhưng nước mắt người già cứ chảy. Con gái đã tuột khỏi tay ông rồi. Mặt trời đi vội trên đỉnh đầu. Rồi chạy nhanh sang dốc chiều. Cánh đồng hoang quạnh hiu. Hai người đàn ông, một mảnh cô đơn, một nỗi buồn.

 

– Cơn cớ gì mà Lài đi như vậy? Sư phụ ơi.

– Chuyện dài dài. Anh làm sao biết được.

– Vâng. Con cũng không hiểu vì sao sư phụ giải nghề bắt rắn.

– Chuyện dài lắm.

 

Ông thở dài. Buồn não ruột. Đôi mắt ông mờ đục như có làn sương mù nhẹ, mỏng che phủ. Che phủ cả một vùng ký ức buồn đau vón lại trong mắt. Nước mắt người già đã chảy, lại chảy. Như tưới lên, nhòe đi, trôi mất làn sương mờ đục ấy để vùng sáng ký ức bùng lên. Và ông trở lại miền ký ức bằng giọng nói người già sống sắp vãn cuộc đời.

 

Nó – con Lài ấy, lớn lên không còn mẹ. Bám lấy cổ ông, Lài gọi: “Cha ơi. Mẹ con đâu? Mẹ con đâu?”.

 

Nó – mong manh. Bé bỏng. Non nớt. Ông không nỡ trả lời: “Mẹ con ở trong đất”. Ông chỉ tay xuôi về phía triền sông: “Mẹ con xuống phố sắp về”. Đã trăm ngàn lần ông trả lời con. “Sao lâu thế cha ơi”. Ông chỉ còn biết ôm con vào lòng, nuốt nước mắt vào trong. Dân bắt rắn ở làng thường trêu: “Mẹ mày buôn rắn lên phố bán, ở luôn trên đó rồi”. Người khác bảo: “Thôi đừng trêu nó. Tội nghiệp”. Kẻ lại bảo: “Mẹ mày bị rắn cắn chết đang nằm ở bãi tha ma Miêu Linh kia kìa”. Tủi thân, nước mắt Lài cứ ứa ra. Bọn cùng tuổi có mẹ còn nó thì không. Có lúc nó muốn ra bãi tha ma một mình xem mẹ nó có ở đấy không. Nhưng, một đứa bé như nó, cánh đồng Miêu Linh quá hoang dã và bí ẩn.

 

Lài lớn lên, cánh đồng Miêu Linh có từ thuở nào. Bãi tha ma Miêu Linh giống như con mèo ngồi thu mình vồ mồi. Xung quanh ngổn ngang gò đống to nhỏ, đất vàng quạch giống hình những con chuột kiếm ăn khắp cánh đồng. Ở phía nam gò Miêu Linh dứa dại, cỏ mọc như rừng. Hang hốc chồn, cáo, mèo hoang… nhiều vô kể. Dưới cánh đồng rong rêu, năn lác mọc ngàn ngạt.

 

Rồi cũng đến lúc phải nói rõ sự thật về cái chết của vợ. Ông dẫn con gái ra bãi tha ma Miêu Linh. Mộ cỏ xanh lô nhô xen lẫn mộ đất mới nâu sậm. Ông chỉ và bảo: “Mẹ con đang ở đây”. Dường như đã chuẩn bị tâm thế từ lâu, nó hỏi lại cha: “Có phải rắn cắn chết mẹ?”. “Đau lòng lắm con ạ”.

 

Ngày ấy, Lài còn đang bú sữa. Tối nhập nhoạng, vợ ông vào góc bếp lấy muối. Đạp phải cái gì đó tròn, lạnh, bà giật nảy chân ra. Mới kịp kêu: “o… oái”, con rắn đã quăng mình đớp vào tay. Vợ ông thót tim, ngã dúi dụi. Con mèo cái tam thể nhà nuôi lại ngoạm tiếp vào cổ chân. Ông đang cầm đèn ló soi rượt theo con rắn chạy trốn trong chuồng gà. Ông vội vàng chạy vào bếp. Một con rắn ngóc đầu thao láo mắt thôi miên ánh đèn. Một con nữa quấn quít, đuôi quằn quại xoắn vào đít, vào đuôi con mèo. Thì ra phải nựng con gái khóc mà ông không biết giỏ rắn mà ông vừa đi bắt về bị sổng hom. Ông đập chết cả ba con. Hai vết cắn đều rớm máu. Chữa kịp thời nhưng tuần sau bà chết, không biết vì mèo hay vì rắn. Ngày đó bụng vợ ông đã to kềnh kệnh. Cái thai cứ xoay, đạp, trồi trụt theo hơi thở yếu dần của người mẹ xấu số.

 

Dạo ấy, cả tháng trời, phía tây ráng đỏ ối. Rồi mây đen quằn quại nuốt chửng hoàng hôn. Chuột đỏ mũi nhung nhúc đàn đàn, lũ lũ phá phách. Mất mùa mấy vụ liền…

 

Người đàn ông cố xua đi những điều đã thấy, đã nghe đang ám ảnh trong đầu. Anh cũng cảm thấy mình đang rơi vào cuộc săn đuổi với: Rắn… Mèo… Chuột… Và người. Anh bước đến góc lều kéo cái lồng ra sát đống lửa. Lũ mèo đen bị sập bẫy mặt mũi, chân trước, chân sau rớm máu. Chúng bị đánh thuốc ngủ cho mê mệt để chờ người đến lấy. Anh lại nhìn lồng mèo. Anh trầm ngâm…

 

Tảng sáng. Người đàn bà bừng dậy. Hốt hoảng. Ngơ ngác. Rã rời. Ngôi lều, đống lửa và người đàn ông quen lạ, lạ quen. Hai bàn tay giờ chỉ còn tám ngón. Tiềm thức bị che phủ suốt nửa đêm về sáng vụt dậy. Những hình ảnh cuộc ra đi… con miêu tam thể… cuộc chạy trốn bị săn đuổi… vườn cây… cánh đồng hoang dã… thoáng qua nhanh trong đầu chị. Chị đã biết mình đang ở đâu.

 

– Khiếp quá! Cô mê man suốt – Anh nói giọng khê nồng.

– …

 

Chị thầm nghĩ: Vẫn ồm ồm, giọng anh chưa bị the thé.

 

– Cô có nghe tôi nói không? Mấy hôm nay ông già cứ qua đây ngóng tin cô.

– ….

 

Rù… Rù… Rù… Một con mèo lạ lấp ló trước cửa lều. Một con đực già khọm. Mặt nó nhăn nhúm, lông nhợt vàng. Mắt bạc xanh. Dữ dằn. Hoang dại. Con miêu bước theo sau. Mèo hoang quay lại âu yếm vuốt ve con miêu. Mặt miêu cứ nhăn lại như cái bụng chửa bị đau. Hình như nó động đẻ. Rù… Rù… âm thanh rất dị biệt của loài mèo lúc động hứng gọi bạn, lúc vớ được miếng ăn khi đói. Mạnh mẽ, dứt khoát, người đàn ông đứng phắt dậy. Chị nhảy từ chõng tre xuống. Chị lảo đảo, tay giữ anh lại.

 

– Tôi xin anh. Hãy để cho chúng yên. Đừng làm ác.

 

Miêu và con mèo hoang quay đầu lại nhìn hai người ở trong lều. Mắt chúng rực lên như có lửa rồi lại dịu dần, trong veo. Ánh mắt như mách bảo: Dù đồng loại hay khác loại, đừng làm ác với nhau thì sẽ chung sống được. Chúng không nhìn người, không vờn nhau nữa. Hai con sóng đuôi đủng đỉnh, dựa vào nhau đi, như là tựa đỡ, chở che nhau. Chúng mất hút ở ngoài đồng hoang.

 

Lúc chị ra đi là buổi chiều.

Khi chị về nhà là buổi sáng.

 

Buổi chiều chị đi về phía hoàng hôn. Buổi sáng chị đi về phía bình minh.

Cha chị ngồi ở đầu hè. Ông ngồi câm lặng. Ông nhìn xuống đám mộng mạ mới gieo. Phân chuột. Vỏ trấu. Vết chân chuột châm be bét mặt ruộng. Chị sững sờ. Chị gọi:

 

– Cha ơi!

Rồi chị nhào vào lòng cha.

 

Bình minh lên cao. Nắng rát vàng tươi khắp cánh đồng Miêu Linh. Người đàn ông chỉ còn tám ngón tay bắt gặp lại con miêu và con mèo hoang bên đống năn khô. Bây giờ anh mới nhìn thấy rõ: miêu đang nằm nghiêng, lông đen nhánh. Đỉnh đầu nó có đốm lông trắng viền vàng như hoa nắng. Suốt từ ngực, bụng đến háng là một vệt lông cũng trắng. Và lồ lộ những cái vú nhỏ xinh, phớt hồng. Bên bụng miêu là bốn con mèo tam thể bé tí, xinh xẻo, lông còn ướt.

 

Anh cởi áo quây thành ổ. Anh ôm ổ mèo con và miêu trên tay. Anh đi qua cánh đồng Miêu Linh, lội qua chỗ lội về phía nhà chị. Con mèo hoang lẽo đẽo đi sau bất chợt kêu. Miêu và bốn con mèo con tam thể cũng ngoeo… ngoeo… Tiếng kêu vang lên cùng tiếng gió, tiếng đồng đất, tiếng dòng sông trong nắng mới giao mùa. Tất cả, tất cả… đồng vọng nơi hoang dã.

 

 

TRUYỆN NGẮN:

 

>> Vé vớt – Nguyễn Quang Thân

>> Người viết bằng Tổ quốc ghi công – Trần Quốc Toàn

>> Những ngày mưa – Nguyễn Minh Ngọc

>> Bức tử hiện tại – Hoà Bình

>> Sương hồng – Lê Minh Khuê

>> Cuộc tìm nhau – Lê Quang Trạng

>> Táo cắn dở – Nguyễn Vũ Hồng Hà

>> Trung thu của cu Tin – Y Nguyên

>> Bóng đổ nơi chân sóng – Hoàng Việt Hằng

>> Lặng yên ngưng đọng – Vĩnh Thông

>> Kiếp hoa – Vũ Minh Nguyệt

>> Thế hệ thứ ba – Bùi Tự Lực

 

 

>> ĐỌC TRUYỆN NGẮN TÁC GIẢ KHÁC…