Tháng 9 năm ngoái, chúng ta vừa long trọng kỷ niệm 200 năm ngày mất và 250 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du. Đây thật là một dịp thích hợp để hậu thế, một lần nữa, “trả lời” câu hỏi đau đáu của đại thi hào lúc sinh thời: “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”. (Ba trăm năm nữa, trong thiên hạ/ Ai người ngồi khóc Tố Như lang?).
Nhân dịp này, nhà thơ Đỗ Trung Lai vừa cho in cuốn “Tổng tập thơ chữ Hán Nguyễn Du” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). Anh nói vui: “Việt hóa đi cho quân ta dễ đọc!”.
Văn nghệ Công an xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn sách này! Và, mời bạn đọc tìm hiểu cuốn sách qua bài viết sau đây của tiến sỹ Đỗ Anh Vũ.
Tượng đại thi hào Nguyễn Du tại quê hương ông, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Cuốn sách cho chúng ta biết, sự nghiệp thơ của Nguyễn Du chia làm 2 phần:
1. Thơ chữ Hán: “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”.
2. Thơ chữ Nôm, mà Truyện Kiều là kiệt tác.
Ở đây, chỉ xin nói về thơ chữ Hán của đại thi hào. Nguyễn Du để lại “khoảng” 400 bài thơ chữ Hán. Nói “khoảng” là vì nhiều khi, với cùng một tên bài, ông viết nhiều kỳ (Ví dụ bài “Điệu hát Trúc Chi viết ở Thương Ngô”, có những 15 kỳ). Đó thật là một di sản lớn.
Qua thơ chữ Hán, nhân sinh quan, thời thế, gia cảnh, hành trang, tình cảnh và tình cảm của ông hiện ra rõ mồn một. Có thể nói, đời Nguyễn Du dường như “chồng khít” lên thơ chữ Hán của ông vậy.
Nguyễn Du xuất thân “Danh gia vọng tộc”. Viễn tổ (Tổ 3 đời) của Nguyễn Du là Nguyễn Thiến, đỗ Đình nguyên, làm Thượng thư bộ Lại dưới triều Mạc.
Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ Hoàng giáp năm 1732, làm quan đến Tể tướng, Đại Tư không, Thái tử Thiếu bảo, tước Xuân Quận công. Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 con (12 con trai). Con cả là Nguyễn Khản, từng làm đến Tham tụng dưới trướng Chúa Trịnh.
Đến khi Tây Sơn đổ, Nguyễn Ánh lên ngôi (1802) và tuyên triệu các quan lại cũ của nhà Lê ra làm việc, thi hào Nguyễn Du lần lượt nhận các chức: Tri huyện Phù Dung (Hưng Yên), Đông các Đại học sĩ (ở Huế), Cai bạ Quảng Bình. Sau khi làm Chánh sứ đi Trung Hoa về, ông được thăng Tham tri bộ Lễ nhưng ông, trong thơ, tỏ ra không mặn mà gì với việc làm quan, thậm chí còn thấy ông luôn “than thở” về nó nữa!
Nguyễn Du viết khi ở Quỳnh Côi, Thái Bình: “Xa quê, gió bụi mười năm trọn/ Tóc bạc bơ phờ gửi cửa người“. (U cư – Ở nơi vắng vẻ, kỳ hai).
Sau “Mười năm gió bụi” ấy, ông về ẩn ở Hồng Lĩnh và viết “Nam trung tạp ngâm”. Thời gian ông sống ở Hồng Lĩnh, tuy vẫn nghèo nhưng tinh thần đã dần lạc quan hơn: “Mắt thấy việc đời như mây nổi/ Lưng đeo trường kiếm, gió Thu rơi/ Chuyện thầm với trúc ngoài sân vắng/ Sương tan, rồng sẽ hiện lên thôi“. (Ký hữu – Gửi bạn); “Thời nhàn không xa đâu/ Hẹn trung châu tái ngộ!”. (Biệt Nguyễn đại lang – Chia tay bác cả Nguyễn).
Thời thế lúc ấy vào trong ông mà sinh tình: “Thềm ngọc mười năm mờ cát bụi/ Bắc thành, một nửa hóa gò hoang/ Trùng nhát, chim hèn bay hết cả/ Càn khôn nhơ nhớp máu nhân gian/ Binh lửa, trông quê ngàn dặm khóc/ Bạn bè, thân thích ít thư sang/ Thu nhạt, cá rồng bơi lặng lẽ/ U hoài trăm mối, đập không tan“. (Bát muộn – Đuổi sầu).
Gia Long triệu, ông ra, nhưng kể cả khi làm quan triều Nguyễn, con người ông vẫn vậy và “quan cảnh” của ông ở tân triều cũng chẳng vui gì! Tiêu biểu cho thời làm quan này là bài “Thu chí – Thu đến”, viết ở Huế: “Hương Giang, trăng một phiến/ Cổ kim treo gọi sầu/ Cỏ buồn trên mộ cũ/ Thu mới, ta bạc đầu/ Thân gầy như thân lính/ Lưng khom không vì đau/ Bến Lam Giang nhìn lại/ Thẹn sai cùng bạch âu“.
Nói đến nhân sinh quan, không ở đâu nhân sinh quan Nguyễn Du bộc lộ rõ như ở những bài thơ viết trên đất Trung Hoa trong “Bắc hành tạp lục”, trên đường ông đi sứ. Ở đó, mọi sở học của ông đều có thể tung hoành: Sự am tường lịch sử, văn hóa – thi ca Trung Hoa, nghệ thuật làm thơ Đường luật, những giá trị Nho gia chính thống, sự phong phú của chữ nghĩa, sự nhạy cảm – tinh tế của một nghệ sĩ lớn… giúp ngòi bút ông khoát hoạt hơn, gấm hoa hơn. Có lẽ cũng còn vì viết về Trung Hoa ở Trung Hoa, ông không phải e dè gì hết.
Kính trọng và thương xót Khuất Nguyên, ông viết: “Vườn “Đức” vắng Người hai ngàn năm/ Vẫn vương hương cỏ với hương lan/ Đứt ruột, ba năm đày khỏi nước/ “Sở từ”, vạn cổ vẫn huy hoàng/ Sông lắm giao long, hình cốt mất/ Hoa cỏ càng thơm dọc bãi hoang/ Hút mắt không nhìn ra dấu cũ/ Lá vàng theo gió vượt Tương Giang!”. (Tương Đàm điếu Tam Lư Đại phu – Đến Tương Đàm, viếng Khuất Nguyên, kỳ 1).
Với Đỗ Phủ, ông viết: “Cứ đọc “Mũ nho làm lụy thân”/ Lại khóc thương người đất Đỗ Lăng/ Văn chương sáng chói, dùng đâu nhỉ/ Con đói kêu dài, bỏ được chăng?/ Thiên hạ khen thơ thầy vạn thuở/ Tôi thương mồ lạnh chốn xa xăm/ Thuyền lẻ trên sông, Thu dào dạt/ Chiều Lỗi Dương về, sầu khôn ngăn!”. (Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ – Qua mộ Đỗ Phủ ở Lỗi Dương, kỳ 2).
Qua Thương Ngô, nhìn núi Cửu Nghi, nơi có đền thờ Ngu Thuấn, Nguyễn Du không thể không có cảm hứng với chuyện, khi Thuấn mất trong cuộc tuần du, hai bà vợ (Nga Hoàng và Nữ Anh – con gái vua Nghiêu) ra bờ sông Tương, vừa gảy đàn 25 dây (Nhị thập ngũ huyền cầm) vừa khóc, nước mắt hai nàng rơi xuống dây dàn, bắn lên rặng trúc bên bờ và từ đó, trúc sông Tương có hoa trắng lốm đốm rất đẹp, người ta chẻ trúc ấy làm mành, gọi là “Mành Tương”, và ông viết: “Ngu Thuấn tuần Nam không trở lại/ Trúc xanh đọng mãi lệ Anh Nga/ Chuyện cũ ngàn năm còn để dấu/ Sử ký hiện hình trước mắt ta“. (Thương Ngô tức sự – Gặp cảnh mà viết ở Thương Ngô).
Ông “truy kích” Mã Viện từ Việt sang Trung: “Được tiếng vua khen ngoài sân điện/ Đâu biết em mình buồn thế kia/ Đồng Trụ chỉ lừa nhi nữ Việt/ Xe ngọc chỉ làm con cháu nguy/ Họ tên hợp với Vân Đài các/ Sao ngoảnh về Nam đòi lễ nghi?“. (Giáp Thành Mã Phục Ba miếu – Miếu thờ Mã Viện ở Giáp Thành, Kép, Bắc Giang).
Bìa cuốn sách “Tổng tập thơ chữ hán của Nguyễn Du” do Đỗ Trung Lai soạn sách và dịch lại thơ.
Đến Nghiệp Thành, nơi có 72 ngôi mộ giả của Tào Tháo, ông “mắng” thẳng: “Nghiệp Thành, đồng bãi ngập hơi thu/ Cây cỏ tiêu điều, ngẫm chuyện xưa/ Trí lự một đời, sao uổng thế/ Hay chi? Vạn cổ đổ nghi ngờ/ Quách đầy tiếng xấu, còn chôn giấu/ Đời chửi lên xương cũng lặng tờ/ Cẩm thành, quanh miếu thờ Tiên chủ/ Tùng xanh, bách sáng đến bây giờ”. (Thất thập nhị nghi trủng – Bảy mươi hai ngôi mộ giả). “Cẩm thành” chính là Thành Đô – kinh đô Thục Hán, “Tiên chủ” chính là Lưu Bị. Nguyễn Du trọng Lưu – khinh Tào.
Đến mộ Lưu Linh, một trong “Thất hiền” thời Đông Hán, “bợm rượu” nổi tiếng nhất Trung Hoa, ông “trêu”: “Say, vẫn nói mình ngang vạn vật/ Sao lo thân xác lúc lìa hồn?”. Nhưng rồi nhìn lại mình, ông tự hỏi: “Sao ta lấy tỉnh trông đời vậy?/ Để như bèo dạt, thật thương tình!”. (Lưu Linh mộ – Mộ Lưu Linh). Có lẽ, ông đã “ngộ” lời Hứa Do, khi Hứa Do rửa tai, hai lần từ chối lời mời làm vua của Đế Nghiêu: “Danh chỉ là khách. Thực mới là chủ“. Thật vậy, say – tỉnh, thành – bại, sang – hèn…, suy cho cùng cũng chỉ là danh. Thực có nhàn không (nhất là vui nhàn), với ông, mới là trọng!
Rồi ông viết về Hạng Vũ, Liêm Pha, Lạn Tương Như, Dự Nhương, Kinh Kha, Chu Du, Lý Bạch, Nhạc Phi, Tần Cối v.v… và v.v…, cũng với nhân sinh quan ấy.
Có thể nói, thơ chữ Hán của Nguyễn Du, đặc biệt là ở mảng đề tài viết ở Trung Hoa, nhiều bài thơ của Nguyễn Du có thể xếp cùng vào thơ hay Đường – Tống!
Đúng như nhà thơ Đỗ Trung Lai đã viết: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du dường như chồng khít lên cuộc đời của thi hào vậy!”.
Ai yêu Nguyễn Du, chắc thích cuốn sách này.
Theo Đỗ Anh Vũ (VNCA)