Thơ tình Trần Hạ Vi

722

Nguyễn Đức Tùng 

(Lời bạt cho tập thơ Vi)

(Vanchuongphuongnam.vn) – Đôi khi vào buổi sáng sớm, một vài câu thơ của Trần Hạ Vi trở lại trong tâm trí tôi, như lời tâm sự hay một sự thật. Thơ chị là cuốn nhật ký từ bên trong. Nhiều người quanh ta đang hạnh phúc vì có tình yêu, nhiều người khác đã có, đánh mất. Nhưng chị có cả hai cùng lúc: niềm vui và nỗi buồn, lo âu và may mắn.

Nhà thơ Trần Hạ Vi 

 

tháng mấy sao mùa xanh thế

nghịch ngầm cát bỏng mắt trong

cánh nhạn xa mùa chưa tỏ

sương mai uống tối rưng lòng

Trong những bài khác, thơ chị không trau chuốt như vậy, và ý tưởng rõ ràng hơn. Làm thế nào để dung hợp cái đẹp của ngôn ngữ và tính mục đích? Bài thơ của chị định nói một điều gì, không những thế, còn định nói với một người nào. Đó là thứ ngôn ngữ trẻ trung, khi ngọt ngào thì ngọt ngào quá, khi lại phũ phàng. Thơ châm biếm nhiều hơn hài hước, khiêm tốn nhiều hơn lên giọng, trong sáng nhiều hơn mờ ảo. Đó là thơ tự do của những năm gần đây.

nhà em ít cãi nhau

nên lâu lâu là em muốn khóc

Tôi vốn cẩn thận khi đứng trước sự đơn giản. Nhiều khi chúng chỉ là giản đơn trống rỗng, có lúc bên trong chứa những bí mật. Bề ngoài, các quãng đời của chị thể hiện rõ ràng, không dấu diếm. Chị thành thật nhưng không phải khi nào cũng tin vào quyền năng của thơ ca. Thực ra, đối với tình yêu, Trần Hạ Vi cũng có lúc nghi ngờ. Tuy còn khá trẻ, dường như chị sống nhiều hơn một cuộc đời:

em ngồi cho trà vào những túi nhỏ

lá trà khô quắt tự ép mình

cong queo

mỗi túi trà một muỗng cà phê

như tình nghèo

như yêu thời bao cấp

 

lằn ranh đói khổ chật vật

tình yêu như con thú dữ

đôi khi cần bỏ đói

không thể nâng niu

 

em cho trà vào những túi nhỏ

như phân phối khẩu phần

siết hờ miệng túi phân vân

nhớ anh bao nhiêu

xa anh bao nhiêu

phải chăng là đã đủ?

Thơ đối với Trần Hạ Vi là phương tiện để trò chuyện với tình yêu ở ngã rẽ của đời, bao dung và khắc nghiệt, trung thành và phản bội. Thơ tình không chỉ là thơ tình mà còn là ký ức của một người sống sót sau tai nạn, quãng đời truân chuyên, và đôi khi, sau một cái chết.

mênh mông quá

ta lạc lòng hồ lạ

nước mịn màng

nước ve vuốt trầm kha

 

yêu em đó

ta gặp em ngày lạ

tim rộn ràng

tim chở máu phù sa

Có lẽ có người phàn nàn thơ chị bị ám ảnh quá nhiều bởi những vấn đề riêng tư. Thì đó cũng là rắc rối của thơ trữ tình hôm nay: đào sâu vào cái tôi của mình, không chú ý đến người khác. Nhưng trong văn chương, người đọc phải nhìn thấy cái bóng của chính họ. Thế này thì riêng hay chung?

em đã từng yêu anh

hơn người đàn ông đó

anh lẳng lặng ra đi

người ta lau nước mắt cho em

rồi hôn em

em không phản đối

trước khi quay về

anh hãy chạy qua chín dòng suối

vớt lại giọt nước mắt em

Càng về sau, Trần Hạ Vi càng đi xa khỏi tính rành mạch, tới gần phía đường biên lẫn lộn sáng tối, tìm cách nói những điều khó nói. Đó là thứ thơ nổi loạn của người nữ, thoát khỏi định kiến về giới tính, gia đình, văn hóa. Nhưng một người muốn nổi loạn chống lại quá khứ cần phải hiểu quá khứ, chống lại cái cũ cần hiểu cái cũ.

tháng mấy chòng chành ước nguyện

nhẹ nhàng anh nói lời yêu

cứu vớt đời nhành cúc mỏng

yêu – không yêu; tả tơi chiều

 

tháng mấy mặt trời hôn vội

mây hồng ráng đỏ bên sông

bắt đầu mà thương thấy tội

nụ cười sưởi ấm hờn đông

Chúng ta muốn nhìn thấy nhiều hơn trong thơ chị khía cạnh thiên nhiên và xã hội, vốn thiếu vắng trong thơ tình. Cùng với một số nhà thơ cùng thế hệ, chị là tiếng nói độc đáo, mạnh mẽ, cất lên từ lồng ngực một người tình, người vợ, người mẹ, sống xứ người, làm việc trong môi trường tiếng Anh nhưng làm thơ bằng tiếng Việt, một thế hệ trí thức mới trước đây chưa từng có. Thế giới qua mắt Hạ Vi là một thế giới phục vụ cho tình yêu; tôi tin rằng rồi đến một lúc chị sẽ mở rộng quan điểm ấy và nhìn thế giới trong những chiều kích lịch sử. Chị sử dụng thể thơ tự do không câu thúc, đó chính là điểm mạnh và điểm yếu. Trần Hạ Vi có khả năng gần như bẩm sinh, rút ngắn và làm mờ khoảng cách giữa người viết và người đọc, tạo ra sự thân mật mau lẹ, làm cho người đọc dễ hóa thân vào tác giả, sống chính cuộc đời ấy, ăn, ngủ như vậy, yêu đương và thổn thức như vậy, dày vò và sung sướng như vậy. Đó gần như là loại thơ thuộc khuynh hướng xưng tội của Mỹ, như của Sylvia Plath, nhưng mới mẻ hơn, hồn nhiên hơn.

sinh nhật anh mùa hạ

em chuẩn bị quà

đầu mùa đông

nửa năm

lệ chảy bao nhiêu dòng

vui mừng bao nhiêu phút

sinh nhật có bao giờ là đúng lúc

yêu nhau có bao giờ là đúng lúc

bút nhúng mực trăng

thơm giấy tỏ tình

Hình ảnh trong thơ chị xuất hiện ít nhưng đẹp; bài thơ đôi khi như giai thoại. Chúng ta vẫn chưa nhìn thấy hết tài năng và ảnh hưởng của những nhà thơ mới xuất hiện sau năm hai ngàn, trong nước hay hải ngoại. Thành tựu của họ khó xác định không những vì số lượng tác phẩm còn ít, mặc dù có người có sức viết ghê gớm, mà còn vì những chiều hướng nghệ thuật mà họ theo đuổi, táo bạo, bí ẩn. Lớn lên trong một xã hội ngày càng phân rã, những giá trị bị đảo lộn, tiếp cận thế giới bên ngoài giữa những thay đổi chóng mặt, có lẽ chị làm thơ để giữ mình lại trong quỹ đạo của ngôn ngữ và văn hóa Việt. Của tình yêu. Ngoài thơ tự do, chị cũng viết một vài bài thơ có vần, xúc động.

dã tràng hay còng đá

cũng là xe cát thôi

viên tình tròn vành vạnh

chìm kiếp sóng bạc vôi

con đường chiều trắng quá

nhạt nhòa đốm mắt môi

cuộc tình mình trắng quá

sao đã mất nhau rồi?

Xuất thân từ một ngành học không liên quan đến văn chương, ở một nơi xa cộng đồng Việt, ít khi về nước, chị vẫn giữ mối liên kết với quê nhà bằng ngôn ngữ và mạng xã hội. Như thế, viết là con đường trở lại với lịch sử và hy vọng mới. Thơ chị riêng tư, gần gũi, tin cậy, không êm ái dịu dàng mà gập ghềnh, thô ráp, nhiều chất văn xuôi. Tính chất văn xuôi làm cho thơ hôm nay có những đặc điểm: gần văn nói, xa vần điệu cổ điển, nhiều cách thể hiện ý tưởng, và tứ thơ trở thành xương sống. Mặt khác, ngôn ngữ nào cũng thay đổi, những chữ vốn cũ nay có thể mang nghĩa mới, và ngày càng sinh ra những kết hợp mới, vừa nhiều ý nghĩa vừa nhòe mờ: những thay đổi như thế giúp nhà thơ hôm nay có nhiều cách tiếp cận hơn với hiện thực, nhưng mặt khác cũng đưa người đọc đến với hai trạng thái, hoặc tăng cường hiểu biết hoặc làm họ ngoảnh mặt đi, gây sự phân cực trong độc giả.

bạn chờ gì

không dám yêu như đàn ông?

Không phải là một câu thơ tầm thường.

Có một sự thẳng thắn gần như tàn nhẫn, một sự sâu sắc che giấu cái nông nổi, và vẻ nông nổi che giấu sự sâu sắc. Cũng vậy, sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể chất, nam và nữ, truyền thống và nữ quyền, sự buồn rầu trống rỗng và tình yêu cuộc sống, trộn lẫn trong bài thơ Trần Hạ Vi, làm cho thơ ấy trở thành một hỗn hợp hiếm, lạ.

em trải qua 5 năm đọc ngôn tình

cùng với hai người bạn

sủng, sắc, ngược, huyền huyễn, hào môn

xuyên không, trùng sinh, hiện, cổ và cận đại

lớp lớp sóng tình nhấn chìm bờ đại hải

Lạ chưa phải là hay. Nhưng là khởi đầu phải có của người làm thơ, nhất là người làm thơ hôm nay. Bạn không có nó ư? Tôi thực không có nhiều hy vọng. Vì làm thơ bây giờ khó hơn ngày trước. Mối quan hệ giữa tính mơ hồ và tính trực tiếp, tuy vậy, thuộc về tay nghề của cá nhân tác giả: quá mơ hồ thì bài thơ không có sức sống, quá trực tiếp thì bài thơ trở thành thông báo. Đọc một bài thơ trong trẻo cũng tựa như khi bạn nghe tin tức đọc trên đài phát thanh, chữ nào tách bạch chữ đó; trong khi ở người không chuyên nghiệp, sự phát âm của chữ sẽ dính vào nhau. Tính đa nghĩa của một câu thơ không liên quan gì đến sự trong sáng của nó, thậm chí ngược lại: một câu thơ càng trong sáng, ý nghĩa càng tích tụ nhiều lớp.

những đau đớn lòng ngày xưa đã ngủ yên

em có yêu anh như người thay thế

trời buông nắng xế

héo nhành hồng

héo cả lá thư tay

Từ vựng của trần Hạ Vi gồm những chữ thông dụng. Chị không cố gắng sinh ra chữ, không dùng ngôn ngữ như một cách làm mới, không dùng các dấu chấm, dấu phẩy, xuống dòng để làm bài thơ trở nên lạ. Chị chấm câu và dùng chữ chính xác.

cảm giác em sẽ ngồi với anh thật lâu

và sau anh cũng không còn yêu ai nữa

 

bức tường xây dang dở màu vôi vữa

có những tình yêu vĩ đại hơn gái với trai

Không, không phải chính xác, mà là giản dị.

Một trong những công việc của thơ ca là nhắc cho chúng ta nhớ lại. Nhớ lại lịch sử, tội ác, lỗi lầm, tình yêu, chia lìa, đoàn tụ. Con người ngày càng trở thành tù nhân không phải của quá khứ mà là của cái chưa tới: sự lo âu. Chúng ta quan tâm quá nhiều đến chúng ta chăng, trong một thế giới ngày càng bất ổn?

thơ cho người đàn ông vô tư

vô cùng đặc biệt

99% là sản phẩm của trí tưởng tượng

Ngay cả sự đau khổ cũng được làm mới lại. Thơ có cả tối và sáng, thực ra thơ của ai cũng thế, nhưng ở chị chúng luân phiên thay đổi mau lẹ, như các cảnh trong phim. Khả năng chiếu rọi của chị vào hiện thực là đặc biệt, khả năng ấy sẽ còn được tăng cường hơn nữa nếu chị sử dụng một ngôn ngữ điêu luyện.

Không phải là một người có quan điểm nữ quyền rõ rệt, chị mang lại tiếng nói mới của một phụ nữ ở ngoài đất nước và, trong khi mối liên hệ của chị với quê hương vẫn còn đó, đang góp phần chỉ ra những hướng đi mới cho văn học của thế hệ mới, sự hội nhập dễ dàng và không mặc cảm, cách nghĩ ngợi về tự do, không định kiến, đương đại nhưng vẫn giữ hơi thở đằm thắm phương Đông. Người đọc có thể kỳ vọng rằng Trần Hạ Vi sẽ ngày càng làm mới hơn ngôn ngữ thơ ca của mình, một ngôn ngữ sẵn sàng đối diện với quá khứ nhưng bao giờ cũng hướng tới hiện tại, làm mới cảm xúc của chúng ta về thế giới, một thế giới biến động, pha lẫn buồn rầu đau đớn và hạnh phúc dịu dàng. Thơ Trần Hạ Vi đến nay vẫn còn dừng lại phần nhiều ở thơ tình. Tôi tin rằng về sau chị sẽ khai thác những đề tài khác, và cách viết cũng còn thay đổi. Tuy nhiên ấn tượng lớn nhất trong thơ chị phát ra từ quan hệ đối lập giữa lòng tin và sự ngờ vực, sự đồng cảm và cô đơn, cái bồng bột và cảm giác nhẫn nại, niềm hạnh phúc và sự chán nản cùng cực, đôi khi vô cớ, và cuối cùng, tính châm biếm và sự tha thứ. Trần Hạ Vi đi tìm tương tác giữa các cực đối lập và xác lập cân bằng cho mình ở đó: con đường đi tới của thơ chị.

ngày đầu tiên gặp anh

em sẽ khóc

những giọt nước mắt lăn ra như ngọc

dỗ dành nuôi sống cuộc tình xa

Thơ Trần Hạ Vi cũng còn là lòng biết ơn đối với cuộc đời. Lòng biết ơn không dựa trên sức mạnh, tài năng, dũng cảm, những thứ mà tôi tin là chị có, mà dựa vào sự không toàn hảo. Sự không toàn hảo của vũ trụ, của con người, mỗi chúng ta. Lòng biết ơn làm cho chị trở nên thanh thản, giúp chị vượt qua bóng tối của đời mình. Thưởng thức đời sống, yêu mến nó, hân hoan biết ơn nó là một trạng thái của Trần Hạ Vi, trong trạng thái ấy không phải người ta quên bẵng đi người khác, mặc kệ thế giới, như người sống lạc quan ảo tưởng.

cong môi nhớ nụ hôn đầu

cái duyên con gái nhạt màu thanh tân

nhón tay vạt áo nhẹ nâng

thềm nghiêng nắng nhẹ chiều dâng hồn chiều

Nếu mọi thứ đều trôi chảy, ngày nào cũng đẹp như ngày nào, chúng ta sẽ không biết ơn cái đẹp, sự trôi chảy: đêm tối làm ta chiêm ngưỡng ánh sáng. Trạng thái thứ hai của Trần Hạ Vi, mặt khác, sự u ám đau buồn, mất lòng tin, sự rã rời, trong khi làm một nhà thơ đau khổ, thì cũng làm người ấy tràn đầy lòng yêu thương trước ngày mới. Thơ chị là ý thức đối với đời sống. Nếu thành công, mà tôi tin chị sẽ, thơ Trần Hạ Vi là sự thức tỉnh. Thơ chị nhắc chúng ta về sự cần thiết của tình yêu, bất chấp những trắc trở, ly biệt. Thơ tình ấy có tính nhân đạo, chiếu sáng ngay cả trong bóng tối, chính là sinh ra từ bóng tối. Đó là một món quà mà trời đất ban tặng cho người phụ nữ, và chị mang đi để tặng lại cho người đọc chúng ta.

18/03/2020

N.Đ.T