“Tốt đen lạc loài” – Tập truyện ngắn Vũ Việt Thắng

856


Nhà văn Vũ Việt Thắng.

PHẦN I

ĐỨA CON NUÔI THẤT LẠC

(Dựa theo lời kể của CCB Bình)

Nhận được giấy báo của đơn vị cũ, mời họp mặt nhân dịp kỷ niệm bốn mươi
năm ngày giải phóng miền Nam. Mấy đêm liền bà không sao ngủ được vì mừng sẽ được gặp mặt các đồng đội xưa ở đơn vị quân y của tỉnh sau bao năm xa cách. Nhưng một điều mừng hơn cả là bà bạn đồng đội cũ báo tin vừa tìm được đứa con nuôi của bà, đã biệt tăm gần năm mươi năm. Bà cứ thấp thỏm đếm từng ngày. Vừa bước chân xuống xe, thấy bà bạn đứng đợi đang nắm tay một sĩ quan quân đội, theo như bà nhìn loáng thoáng quân hàm trên vai áo biết cấp bậc là thượng tá. Bà bạn vừa nói vừa nắm tay người sĩ quan chạy lại phía bà. Chưa kịp nói năng gì, người sĩ quan giật tay khỏi tay bà bạn, chạy lại ôm chặt lấy bà, miệng mếu máo:

– Mẹ… mẹ!

Bà đứng ngây người chẳng kịp phản ứng gì, người sĩ quan cứ nghẹn ngào trong nước mắt:

– Con là cu Dũng, bé con của mẹ ngày xưa đây! Sao mẹ lỡ bỏ con đi biền biệt mấy chục năm? Bây giờ gặp mặt rồi mẹ đừng bỏ con nữa nghe!

Nước mắt của người sĩ quan lã chã rơi xuống gò má nhăn nheo của bà nóng hổi. Bà ngỡ ngàng vì sự vui mừng, hai hàng nước mắt cũng trào ra. Hình ảnh quá khứ cứ ùa về trong ký ức của bà…

Chiến tranh tràn lan khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam Việt Nam. Trên mảnh đất Nam Việt Nam này, chỗ nào cũng thấy bóng dáng lính Mỹ. Bom đạn Mỹ đã tàn phá xóm làng sau bao năm bình yên sống trong hòa bình. Vừa bước qua tuổi mười bảy, bà đã tình nguyện gia nhập quân Giải phóng. Đơn vị bà được bổ sung vào là trạm quân y của tỉnh Bình Định; đang đóng quân giữa núi rừng bạt ngàn Trường Sơn.

Những cơn mưa tưởng chừng như thối đất thối cát, giữa núi rừng Trường Sơn này. Có khi cả tuần lễ chỉ gió và mưa. Nằm trong trạm quân y mái lợp bằng cỏ tranh, thỉnh thoảng bà cứ giật mình thon thót khi nghe tiếng cây bị mưa gió làm bật gốc đổ rầm rầm trong đêm. Mưa dầm đã bước sang ngày thứ tư; chiều buông xuống núi rừng mịt mù trong làn mưa. Thình lình trong mưa gió, có mấy người đội mưa khiêng một cáng vào trạm quân y. Khi cái cáng được mở ra thì hóa ra là một người đàn bà còn trẻ, cái bụng to phình đang thoi thóp thở. Bác sĩ trực khám sơ qua, ông bảo chuyển lên khoa phẩu thuật gấp. Mọi người có mặt mới ồ lên vỡ lẽ, thì ra là một ca sinh nở. Theo lời bác sĩ người mẹ đang bị sốt cao, mà bọc nước ối đã vỡ từ lâu, sức khỏe người mẹ chỉ còn thoi thóp, bắt buộc phải phẫu thuật để cứu đứa con.

Ca phẫu thuật vừa lôi được đứa bé trong bụng mẹ nó ra. Mọi người đều ồ lên: Thằng cu! Tiếng khóc của cu cậu sao mà to thế, cứ gân cổ đỏ mặt lên: Oa oa… u oa, u oa…! Át cả tiếng mưa rơi rả rích ngoài trời. Người mẹ đang hôn mê cũng chợt tỉnh cựa mình miệng mấp máy gọi:

– Con… con!

Hai cánh tay yếu ớt của người mẹ cố vươn lên khoảng không như muốn ẵm đứa con. Các y tá theo lời bác sĩ đặt đứa bé vào cạnh mẹ nó. Tiếng khóc từ miệng đứa bé im bặt, nó nhụi đầu vào ngực mẹ tìm vú. Người mẹ theo bản năng cứ ôm chặt đứa con vào lòng rồi lịm dần, lịm dần. Khi bác sĩ kiểm tra lại thì ra người mẹ đã chết sau một phút hồi dương do tiếng khóc của đứa con.

Bà được ban chỉ huy giao nhiệm vụ, vừa làm công tác hậu cần phía sau, vừa là bảo mẫu cho đứa bé. Lần đầu tiên bà bỡ ngỡ không biết bế đứa bé ra làm sao, vì nó bé tí cứ lọt thỏm trong vòng tay của bà; đôi khi nghĩ dại chỉ sợ lọt tay để rơi đứa bé. Sữa cho thằng bé bú, toàn nhờ anh em thương bệnh binh nằm điều trị họ có tiêu chuẩn sữa bột, mỗi người một ít góp vào để bà nuôi đứa bé. Rất may trong đơn vị một chị có con đang trong thời kỳ bú mẹ. Nên đôi khi hết sữa hoặc chưa kịp pha, thằng bé khóc quá là bà lại ẵm sang nhờ chị bạn cho bú ké. Khổ nhất là những khi thằng bé bị bệnh, cả đêm nó cứ khóc nhèo nhẹo. Dỗ cách nào nó cũng chẳng nín, sữa thì hết. Chả lẽ đang đêm lại bế sang lán bên gọi bà bạn xin bú nhờ. Thôi bà đành chặc lưỡi, vạch áo cho thằng bé bú. Nó vớ được đầu vú mút chùn chụt. Là con gái chưa hề đụng chạm yêu đương với ai. Lần đầu bị nó bú, bà cứ gồng mình lên vì nó nhột nhạt thấu tận ruột gan. Thôi cũng đành cắn răng mà chịu, vì có như vậy thằng bé mới hết khóc. Riết rồi thành quen, cứ đêm nào nó nhèo nhẹo khóc bà lại vạch vú cho bú. Cu cậu bú mãi rồi bà cũng có sữa thật dù rằng chẳng nhiều như những bà mẹ đang nuôi con. Đem chuyện này ra kể cho mấy bà bạn trong đơn vị có con nghe, họ cũng chịu chẳng làm sao giải thích được. Thằng bé tuy không có mẹ; nhưng nhờ trời nó cũng khỏe mạnh và lớn dần theo ngày tháng. Muốn cho con sau này có sức khỏe và ý chí bà đặt tên là Dũng. Anh em trong đơn vị cưng chiều nó cứ gọi là Cu Dũng, nghe gọi tên là nó lại toe toét cười và chạy lại ôm cổ các cô, các chú; thế nào cũng được trái sim, trái dâu da… hoặc miếng bánh lương khô.

Nửa đêm trời mưa rả rích, đang ngủ dưới khu hậu cần, bà giật mình vì tiếng súng AK nổ rền vang; xen lẫn trong đó là tiếng súng AR- 15 trên khu lán trại thương bệnh binh. Hoảng hốt tỉnh dậy, bỏ Cu Dũng đang ngủ say bà chạy thẳng lên khu A điều trị thương bệnh binh. Trong làn đạn bắn xối xả, bà nhào vào cõng một thương binh bị cụt chân quày quả chạy về phía sau. Tiếng đạn AR-15 bắn rượt theo nghe chiu chíu trên đầu. Trong đêm mưa gió đường trơn, vừa tới cạnh sườn đồi bị trượt chân, bà quăng người thuơng binh cùng cả thân mình lăn long lóc xuống sườn đồi. Khi tỉnh dậy mình mẩy đau ê ẩm, mở mắt nhìn thấy mình đang nằm trong nhà, xung quanh toàn những bạn bè thân quen trong đơn vị. Mọi người vui mừng khi thấy bà đã tỉnh. Cu Dũng cứ nhào vào ôm bà kêu: Mẹ, Mẹ…! Bây giờ bà mới vỡ lẽ thì ra lúc đang cõng người thương binh, bị trượt chân ngã cũng rất may người thương binh bị bà quăng vướng vào một gốc cây, còn bà thì cứ lăn theo sườn dốc; thân mình bầm dập hết. Xương đòn vai phải, bàn chân phải bị gãy cùng hai đốt xương sống bị trật khớp. Sau khi tập kích vào trạm quân y, làm hai chiến sĩ cùng hai thương binh hy sinh; bị ta chống trả quyết liệt tụi biệt kích đã kéo xác đồng đội bỏ chạy. Qua trận bị tập kích này, trạm quân y cũng vất vả rời căn cứ để tránh máy bay Mỹ sẽ bỏ bom.

Những vết thương đau nhức hành hạ bà suốt ngày đêm; chỉ nằm nghiêng được một bên. Trong khi nằm điều trị ở khu A, điều đặc biệt Cu Dũng chả chịu ngủ với ai cứ khóc ra rả cả đêm. Chỉ khi mọi người đưa nó tới nằm cạnh bà thì cu cậu cứ ôm chặt lấy bà mà ngủ.

Tựa như con gà con Cu Dũng lớn lên theo ngày tháng. Nó cứ chạy nhảy suốt ngày trong các lán trại. Cơm ăn chỉ có tiêu chuẩn của bà, khẩu phần ăn của Cu Dũng anh em trong đơn vị hoặc các thương bệnh binh san sẻ cho. Những vết thương của bà sau thời gian dài điều trị cũng chỉ đi vào thời kỳ ổn định. Nhưng sức khỏe đã yếu hẳn, đôi khi bà cố gắng phụ đồng đội nấu ăn mà cũng chả làm nổi; cùng lắm gọt củ khoai hoặc nhặt mớ rau cũng chỉ ngồi được chốc lát, là mình mẩy đau nhức ê ẩm đành phải đi nằm.

Sau mấy năm trời sức khỏe cũng chả hồi phục được bao nhiêu. Đơn vị xét duyệt gửi bà ra ngoài miền Bắc an dưỡng và chữa bệnh. Khi đơn vị trưởng gọi lên ban chỉ huy hỏi về việc cu Dũng, bà thành thật:

– Báo cáo các đồng chí, tôi nuôi nó đã mấy năm nay, quen hơi quen tiếng rồi. Bây giờ mà bỏ nó lại đơn vị, bản thân tôi rất áy náy và lo lắng cho nó khi không có tôi rồi nó sẽ khóc suốt ngày đêm thì sao? Với lại nơi đây là chiến trường… Thôi thì xin các đồng chí cứ cho tôi mang nó theo. Đói khổ, vất vả chừng nào tôi cũng chịu đựng nổi miễn sao có nó bên cạnh.

Thế là bà được mang nó theo; với cái giấy giới thiệu nó là con của một liệt sĩ. Thành thử khi ra trại an dưỡng cu Dũng cũng chẳng có tiêu chuẩn gì cả. Ăn uống hàng ngày toàn nhờ sự đùm bọc, chia sớt khẩu phần ăn của anh chị em thương bệnh binh trong trại an dưỡng.

Những ngày đầu bà được nhập vào đoàn thương bệnh binh, đi bộ theo đường mòn Trường Sơn ra Bắc. Cõng Cu Dũng suốt ngày lại leo đồi dốc, phần thân thể thương tật sức khỏe yếu nhiều khi tụt hậu tít phía sau. Cu Dũng lúc này cũng đã ba tuổi; bà dùng lời ngon ngọt dỗ dành cu cậu, có thương mẹ lắm nó cũng chỉ chạy lon ton được vài đoạn rồi mếu máo khóc:

– Con ứ đi nữa đâu, chân con đau lắm!

Vừa nói cu cậu vừa lấy tay xoa xoa chân. Thương con quá bà cứ hết cõng trên lưng, lại đổi qua bế. “Cái khó nó ló cái khôn”, bà bắt trước người dân tộc thiểu số, lấy hẳn một chiếc áo lính cắt may thành cái địu, khi thì địu nó phía sau lưng, mỏi quá lại đổi địu về phía trước. Khổ nhất là trên đường đi đôi khi không có sữa, Cu Dũng cứ khóc nhèo nhẹo đòi sữa; vì mấy năm trời nó đã quen được bú sữa của các thương bệnh binh cho. Thương con quá cứ mỗi khi tới trạm giao liên nào; bà lại dẫn cu cậu xuống nhà bếp, trình bày hoàn cảnh xin anh chị nuôi quân cho ít nước cơm. Về nhà bà pha với đường, cu cậu cứ cười toe toét vui sướng uống ừng ực. Mẹ thì thân bệnh tật lại phải địu thằng con, dù ở rừng núi đói khát nó cũng nặng gần chục ký lô chứ ít gì. Thành thử ngày nào mẹ con bà cũng là người sau cùng của đoàn về tới trạm giao liên. Hôm nào may mắn gặp được đoàn xe tải chở đồ cho chiến trường, quay ra Bắc họ cho anh em thương bệnh binh nặng và mẹ con bà quá giang, tới trạm kế tiếp. Đi bộ có khi gần cả ngày, nhờ đi xe chỉ vài tiếng đồng hồ; thế là hôm đó mẹ con bà khỏe khoắn vui vẻ.

Gian nan vất vả gần hai tháng trời, đoàn mới ra tới trạm an dưỡng tại tỉnh Ninh Bình. Suốt ngày Cu Dũng cứ bám theo mẹ, ai cũng nghĩ nó là con của bà. Do nhiều chấn thương sức khỏe yếu, nên bà cứ phải nhập viện quân y như cơm bữa, những khi đó Cu Dũng cũng theo mẹ vào bệnh viện ăn ngủ luôn. Trước sân bệnh viện, có những hàng ghế đá dưới những gốc cây; để cho thương bệnh binh ra ngồi hóng mát. Có một thương binh ở khu đặc biệt thường ra ngồi trên ghế đá chơi. Có lần dẫn Cu Dũng đi dạo, nó cứ giật tay bà chỉ về phía người thương binh. À thì ra tại mắt bị thương không thấy đường, điếu thuốc lá làm rơi khỏi tay, mà chỉ thấy ông ấy cúi xuống đưa hai tay quờ quờ tìm điếu thuốc. Cầm lòng không đậu bà ghé vào nhặt điếu thuốc lên đưa cho ông. Dần dà hỏi thăm mới hay trong một trận công đồn ở ngoại thành Sài Gòn, ông đã bị nguyên quả M-79 nổ bên cạnh, khắp thân thể bị găm đầy mảnh và hai mắt bị mờ không thấy rõ hình ảnh. Qua thời gian quen nhau, hình như có tiền duyên từ kiếp trước. Bà cảm thấy tội nghiệp và thương mến người thương binh đặc biệt miền Nam. Bạn bè biết chuyện đã khuyên can:

– Này, trai Nam Bộ họ ăn nhậu ghê lắm, coi chừng sau này khổ đấy mày ạ!

Kệ! Bà bỏ ngoài tai tất cả. Mỗi vùng miền trên đất nước Việt Nam này; dù giọng nói và phong tục ít nhiều có khác nhau. Nhưng: “Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi”, chứ vơ đũa cả nắm sao được. Khi đã hiểu và yêu nhau bà đem chuyện Cu Dũng kể hết cho ông nghe. Ông nhìn bà trầm tư:

– Nó là đứa con bất hạnh, chúng mình cứ coi nó như con đẻ; phải thương yêu nó nhiều để san sẻ phần nào sự mất mát lớn của nó. Rất khoát chúng mình sẽ nuôi nó không cho bất cứ ai để sau này mình khỏi mang tiếng.

Hai người cứ thấp thỏm đếm từng ngày, mong tới ngày đám cưới vì cả hai đã báo cáo với đơn vị. Đùng một cái, buổi sáng nọ có lệnh trên ban chỉ huy trại gọi bà, và kèm theo lời nhắc phải dẫn cả Cu Dũng theo. Bà chột dạ linh tính chẳng hiểu chuyện chi đây. Cu Dũng thì vô tư nắm tay mẹ lon ton chạy theo. Vừa tới ban chỉ huy, đồng chí chỉ huy trưởng vui vẻ chạy ra đón mẹ con bà. Một người đàn ông lạ đầu tóc hoa dâm có lẽ trên bốn mươi tuổi; đứng dậy chào bà và cứ nhìn chằm chằm vào Cu Dũng. Sau khi đã giới thiệu về hai bên, đồng chí chỉ huy chậm rãi vào đề:

– Đây là đồng chí tỉnh đội trưởng của tỉnh Bình Định. Do vết thương tái phát cùng sức khỏe yếu cũng về an dưỡng mấy tháng ở trại an dưỡng này. Vợ chồng đồng chí là dân tập kết, đã xây dựng gia đình gần hai mươi năm, mà chẳng có đứa con nào. Hiện nay vợ chồng đồng chí có một căn nhà trong khu tập thể; do nhà nước cấp ở thành phố Hà Nội. Trong thời gian vừa qua nằm an dưỡng ở trại, nghe nói cháu bé này là con nuôi của đồng chí; đồng chí tỉnh đội trưởng đây muốn xin cháu về làm con nuôi.

Ngừng lại uống thêm ngụm nước, đồng chí nói tiếp:

Đồng chí còn trẻ, trong khi đồng chí báo cáo với đơn vị là sắp kết hôn với một thương binh ở trại bên. Tương lai của đồng chí còn nhiều triển vọng. Đơn vị xét thấy để bảo vệ quyền lợi và lo tương lai cho cháu bé đây; nên ban chỉ huy quyết định, đồng chí phải nhường lại cháu bé cho vợ chồng đồng chí tỉnh đội trưởng, âu cũng là tình nghĩa đồng đội với nhau.

Bà nghẹn ngào trong nước mắt:

– Báo cáo đồng chí… Nhưng mà tôi đã nuôi nó quen hơi mấy năm nay…!

Ông tỉnh đội trưởng chen vô:

– Đồng chí cứ yên tâm, vợ chồng chúng tôi mấy chục năm không có con. Niềm ước ao lớn nhất của các cặp vợ chồng là những đứa con; tất nhiên chúng tôi sẽ nuôi nấng và quý mến nó như con đẻ.
Vừa nói ông vừa đưa tay nắm tay Cu Dũng kéo vào lòng mình. Hình như có sự linh tính, Cu Dũng hoảng hồn giật tay ra chạy qua ngả vào lòng bà, nhìn ông với vẻ sợ sệt.

Ngày ông tỉnh đội trưởng đưa Cu Dũng về Hà Nội. Ông dụ ngon ngọt cỡ nào Cu Dũng cũng khóc ngất, rất khoát không chịu cho ông bế. Nhìn thấy cảnh đó nhiều người không cầm được nước mắt. Đơn vị đành phải cho bà ẵm Cu Dũng theo ông về Hà Nội. Chơi được vài ngày, buổi sáng Cu Dũng còn đang ngủ bà cứ nhìn con mà nước mắt tuôn ra như mưa. Hai tay bà cố bịt chặt miệng cho tiếng khóc khỏi bật ra sợ Cu Dũng thức giấc. Bà lặng lẽ chia tay với vợ chồng ông tỉnh đội trưởng; ra ga Hàng Cỏ đón tàu về đơn vị.
Vài ba tháng nhớ con quá, bà lại xin phép đơn vị đón xe hay tàu hỏa ra Hà Nội thăm Cu Dũng. Khi đi khệ nệ ôm theo đường, sữa… tiêu chuẩn của bà mấy tháng để dành. Khi thấy mặt bà Cu Dũng cứ ôm lấy bà, khóc nấc lên vì tủi thân và hờn giận. Chơi được vài hôm là bà lại lừa lúc sáng Cu Dũng còn đang ngủ, len lén ra về. Đâu được hai ba lần ra thăm, lần cuối cùng ông tỉnh đội trưởng đợi khi Cu Dũng còn đang ngủ, nhỏ nhẹ nói với bà:

– Vợ chồng tôi rất mang ơn đồng chí; đã nuôi nấng cháu Dũng mấy năm nay. Tình mẹ con một sớm một chiều chẳng ai có thể quên được. Đồng chí đã dứt ruột giao nó cho vợ chồng tôi; vì đồng chí biết chúng tôi không có con. Nhưng tôi cũng đau lòng xin nói thật một điều, mỗi lần đồng chí ra thăm; khi về đơn vị là nó khóc lóc suốt ngày đêm, chẳng chịu ăn uống mấy ngày liền. Vợ chồng tôi dỗ dành cách nào, nó cũng chẳng chịu nín, thấy tội lắm đồng chí ạ!

Ngưng lại giây lát giọng ông buồn buồn:

– Đồng chí thương vợ chồng tôi và cháu Dũng; chúng tôi xin đồng chí một điều: Từ nay có nhớ nó cỡ nào cũng đừng ra thăm nó nữa. Đó là đề nghị chân tình của vợ chồng chúng tôi, mong đồng chí hiểu cho!

Bà như sực tỉnh khi anh thượng tá lay hai vai bà:

– Mẹ…! Làm sao mẹ thừ người ra vậy?

Bà vội vàng đưa tay lấy vạt áo quệt nước mắt:

– Ờ… ờ… Mới đây mà mấy chục năm rồi, mau quá con nhỉ?

Bà ngẩng đầu lên nhìn người thượng tá, thổn thức trong sự mừng tủi:

– Bây giờ mẹ con mình gặp nhau rồi, hãy thường xuyên liên lạc với nhau nghe con!

Người sĩ quan chỉ biết ôm chặt lấy bà nói trong nghẹn ngào:

– Dạ… Dạ!

LÍNH CHỐT

Con người ta khi đã bước qua ngưỡng tuổi: “Ngũ thập chi Thiên mệnh”, sức khỏe bắt
đầu xuống dốc ào ạt. Gần cả tháng nay tôi bị bệnh mãn tính thấp khớp tái phát, phần cái vết thương ở cột sống nó lại đau, có khi không thể đi đứng được, thế là phải nhập bệnh viện 175 nằm điều trị. Mảnh B-40 găm vào nằm bên đốt sống phải, cứ hành hạ mấy chục năm nay mỗi khi trở trời. Theo bác sĩ không thể phẫu thuật lấy mảnh đạn ra được vì lấy ra có thể bị liệt toàn bộ chi dưới; nên đành phải sống chung và chịu sự hành của nó suốt đời.

Mấy ngày nằm liệt trên giường bệnh. Nhờ thuốc men, và tập vật lý trị liệu của bệnh viện, hôm nay tôi có thể chống gậy cà nhắc tập đi theo dọc hành lang của khoa. Đang tập tễnh đi bỗng thấy có người vỗ vai cùng tiếng gọi:

– Hoàng! Có phải Hoàng trên chốt…?

Tôi giật mình quay lại, đứng sững người tay buông cây gậy ôm chặt lấy anh mừng rỡ:

– Anh Thông!

Chẳng hiểu sao hai hàng nước mắt của tôi nó cứ trào ra ướt cả vai áo anh. Anh dìu tôi lại hàng ghế bên hành lang. Khi đã yên vị, anh nắm đầu tôi xoay qua xoay lại nhìn mà cười trong nước mắt:

– Anh tưởng chú mày không qua khỏi những vết thương trận đó… Nhờ ơn trời Phật, hết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam anh vẫn còn nguyên vẹn hình hài cha mẹ sinh ra đây nè.

Tôi cứ ôm chặt lấy anh trong thổn thức; những hình ảnh quá khứ mấy chục năm qua dồn dập đổ về trong ký ức của tôi…

Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng Nam Bộ, ít nhiều cũng đã thấu hiểu cảnh chết chóc và sự tàn phá của chiến tranh. Những vết thương lòng và dấu vết chiến tranh còn chưa xóa hết. Vậy mà biên giới Tây Nam bị bọn Pôn Pốt, được sự xúi bẩy của Trung Quốc đã ngang nhiên gây chiến tranh. Bọn Pôn Pốt đòi xét lại lịch sử quá khứ vô cớ về vùng đất Nam Bộ. Tôi cũng tới tuổi phải nhập ngũ đúng vào dịp chiến tranh biên giới với Pôn Pốt đang vào cao trào dữ dội.

Sau mấy tháng huấn luyện, tôi được bổ sung vào đơn vị đang chiến đấu dọc biên giới tỉnh Tây Ninh với Căm Pu Chia. Tiểu đội trưởng của tôi là người miền Bắc. Nghe nói đâu trước kia anh đã từng là lính tham gia chiến tranh chống Mỹ. Ngày đầu lên nhận chốt thay cho đơn vị bạn về phía sau dưỡng quân, chúng tôi không khỏi bỡ ngỡ. Chốt nằm trên một sườn đồi cao đổ dốc thoai thoải; xung quanh chốt đã bị đạn pháo của hai phía cày xới nhìn lỗ rỗ như mặt trăng. Cây cối phần nhiều đã gãy gục, lá vàng chen lẫn trong những đám lá xanh cố vươn lên níu lấy sự sống. Cả tiểu đội toàn là lính mới tò te, khi nghe tiếng súng đại liên của lính Pôn Pốt bên kia bắn qua. Làn đạn bay qua nghe chiu chíu, găm vào các gốc và cành cây cao cả mét; mà các lính ta hoảng quá cứ bò dưới giao thông hào. Tiểu đội trưởng đứng dựa lưng vào vách giao thông hào, nhìn các lính ta nằm bò trong nhiều tư thế mà cứ lắc đầu cười. Sau các loạt đạn đại liên bắn vu vơ thăm dò. Anh gom hết lính lại phổ biến kinh nghiệm khi nghe tiếng đạn và tiếng pháo nổ như thế nào để biết đạn bắn cao, thấp hoặc pháo sẽ nổ xa hoặc gần. Các lính nhà ta cứ há hốc mồm ra mà nghe anh giảng giải, ai nấy đều gật gật đầu thán phục chỉ huy của mình.

Đêm thứ năm kể từ ngày lên chốt, sao yên ắng lạ thường. Chả bù với những đêm trước thỉnh thoảng từ chốt bên kia cách khoảng hơn 100m; cứ bắn đại liên hoặc bắn cối cầm canh qua chốt tiểu đội tôi. Tiểu đội trưởng nhắc nhở mọi người phải sẵn sàng chiến đấu. Các thùng lựu đạn mỏ vịt M-67 được khui ra phát thêm cho từng chiến sĩ, anh còn dặn dò từng người khi gác phải chú ý quan sát cho kỹ. Theo như kinh nghiệm của anh; thì chắc chắn đêm nay tụi lính Pôn Pốt sẽ tập kích để đánh chiếm chốt của ta. Phiên gác của tôi đêm nay từ 9 giờ đến 10 giờ. Như mọi đêm ai gác thì gác, trong căn hầm chỉ huy thế nào lính ta cũng tập trung uống trà hoặc tranh thủ làm vài ván bài tú lơ khơ. Lúc này không gian thật yên ắng, lính ta bỏ cữ đánh bài ai nấy ôm súng ngồi dựa vào thành công sự chờ đợi. Tôi căng mắt nhìn dưới màn trời đêm không trăng, nhưng đầy sao. Những bụi tre le, các loại cây gỗ lúp xúp đã bị các loại đạn của cả hai bên bắn, cành cây gãy ngổn ngang đè lên những đám cỏ cháy sém vàng úa. Trong ánh sáng mờ ảo đó, bỗng tôi thấy từng vệt đen đang bò nhích dần về phía chốt. Đưa tay lên dụi mắt không thể nhầm lẫn được, tay tôi mở chốt an toàn khẩu AK mà người run lên bần bật. Đây là lần đầu tiên tôi sẽ phải bắn người thật, suy cho cùng họ với tôi có thù hằn gì nhau đâu. Bên nào cũng phải làm nghĩa vụ công dân của mình. Càng lúc càng nhìn rõ những cái bóng đen đang lùi lũi bò tới chốt. Tôi tỳ má vào báng súng, hồi hộp chờ đợi chúng đến gần như lời tiểu đội trưởng căn dặn. Có lẽ tụi lính Pôn Pôn chỉ còn cách chỗ tôi ba bốn chục mét. Tôi ngắm vào những bóng đen mắm môi xiết cò súng. Đồng hành với tiếng súng của tôi là hàng tràng đạn AK của đồng đội rền vang, điểm trong đó là những tiếng: Oành đùng… của đạn B40 cùng những tiếng nổ của M-79 đanh gọn. Hòa lẫn trong tiếng nổ hỗn độn, hàng tràng súng đại liên từ chốt lính Pôn Pốt bắn qua yểm trợ, và cả những tràng Ak và B-40 của tụi lính Pôn Pốt đang bắn trả lại quân ta. Khi những tiếng hô bằng tiếng Khơ Me rền vang, có lẽ chúng nó hô xung phong? Những cái bóng đen bật dậy vừa chạy tới vừa xả đạn AK về phía chúng tôi. Tiếng đạn cày vào thành công sự nghe: Bịch… bịch… Cùng những quả B-40 chúng bắn thẳng vào công sự, tiếng nổ chát tai, phả hơi nóng vào mặt rát rạt, đất đá văng lên rào rào. Trong hỗn độn nghe tiếng tiểu đội trưởng hét vang:

– Lự…u đạn!

Tôi như sực tỉnh, rút chốt lựu đạn ném liên tục về phía trước, nơi có những bóng đen đang liều mình chạy tới. Trong rền vang tiếng lựu đạn nổ, cùng những tia chớp sáng lòa là những bóng người bay lên ngã vật ra, quằn quại trong đám khói bụi mù trước mắt tôi. Những cái bóng đen đang lao tới bỗng khựng lại, chúng quay đầu bỏ chạy. Tiếng súng quân ta bắn đuổi theo trong vòng vài phút rồi tất cả im lặng. Tôi buông súng, bật ngửa người ra thành giao thông hào, mở nắp bi đông ngửa cổ ra tu ừng ực từng ngụm nước. Tiểu đội trưởng đi kiểm tra quân số, mới hay bên ta hy sinh một, ba bị thương do quả đạn B-40 của lính Pôn Pốt bắn bay nắp công sự. Khi tới chỗ tôi, anh vỗ vai khen:

– Lính mới mà cậu gan lỳ và bắn giỏi lắm! Nghe cấp trên cho hay chúng đánh chốt ta cả trung đội cơ đấy. Đợt này phải đề nghị trên cấp giấy khen cho cậu.

Tôi lý nhí cảm ơn anh. Thực lòng tôi chỉ biết cầu xin Trời Phật cho tôi đừng bị chết ở cái nơi khỉ ho cò gáy này là hồng phúc lắm rồi.

Trời mới tờ mờ sáng, lệnh trên truyền xuống phải ra thu dọn chiến lợi phẩm. Trong tiểu đội còn tám người, tiểu đội trưởng chỉ định bốn người ở lại canh chừng tụi lính Pôn Pốt có thể tràn qua, còn bốn người xuống thu dọn chiến lợi phẩm. Đi kế bên tôi là anh Thông tiểu đội trưởng. Những xác lính Pôn Pốt chết trong mọi tư thế: Có xác nằm sấp úp mặt xuống đất, mũ văng đâu mất cái đầu dính bê bết máu; có lẽ bị đạn bắn vào đầu. Cách vài mét một xác chết nằm nghiêng, cong người ôm lấy bụng đầy những máu đã đông cứng cả quần áo và đỏ thẩm trên mặt đất.

Đáng chú ý nhất có một xác chết có lẽ tuổi còn nhỏ, nằm sấp ôm khẩu súng CKC mà người chả dài hơn khẩu súng mấy tấc. Tôi cúi xuống kéo khẩu súng ra, lật người nó lên. Cái khuôn mặt màu da nâu đã xám xịt, ước chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Ngán ngẩm tôi thở dài: Ở cái tuổi này đã bị tiêm nhiễm thù người Việt Nam đến mức độ cuồng si; mà vào quân đội để rồi chết ở cái tuổi: “ăn chưa no, lo chưa tới” tức tưởi thế này?

Cả mấy ngày liền, tới bữa ăn khi tôi bưng chén cơm là hình ảnh những xác chết cứ hiện lên. Và miếng cơm vào miệng mà tôi như muốn mắc nghẹn ngang cổ; khi nghĩ tới mấy xác chết nằm đối diện với công sự của tôi. Tôi cứ ơn ớn lạnh sống lưng khi hình dung đến những viên đạn và lựu đạn của tôi đã giết chết họ. Tôi không thể ngờ rằng mới ở tuổi mười tám mà tôi đã giết người thật sao? Nhưng tôi lại tự an ủi mình: Chiến tranh mà! Đã ra trận mình không bắn họ thì họ cũng bắn mình; mỗi bên ai cũng phải bảo vệ đất nước theo nghĩa vụ công dân của mình, biết sao được.

Màn đêm buông xuống, mùa khô của Nam Bộ trời trong vắt dù không có ánh trăng. Đêm nay bên chốt bọn lính Pôn Pốt chẳng hề bắn đại liên cầm canh và cối qua chốt quân ta. Dưới ánh sáng mờ mờ lính ta nhìn rõ những cái bóng đen đang bò dưới nền đất rừng tiến về phía chốt. Lệnh tiểu đội trưởng: Tất cả cảnh giới chuẩn bị sẵn sàng nhưng không được bắn; có thể tụi lính Pôn Pốt thu gom xác tử thi. Tôi tựa người vào thành công sự im lặng, chĩa súng về phía trước ngắm vào những bóng đen, nếu chúng có ý định nổ súng; thì chúng tôi cũng sẽ bắn phủ đầu. Vì lòng nhân đạo bên ta cứ im lặng theo dõi, và tụi lính Pôn Pốt cũng lặng lẽ kéo xác đồng bọn về. Cả tiếng đồng hồ sau lại tái diễn cái màn: Lâu lâu từng tràng súng đại liên bên kia biên giới bắn qua chốt; và rồi lại im lặng.

Bốn giờ sáng tiểu đội trưởng nhận lệnh của cấp trên thông báo: Toàn chốt chuẩn bị quân trang vũ khí gọn gàng. Đã từng là lính và được huấn luyện trong chiến tranh, khi lệnh cấp trên ban ra chỉ biết thực hiện. Vừa nhanh tay thu dọn đồ đạc, vũ khí lính ta cứ bàn ra tán vào. Ai cũng chắc mẩm chuyến này được đơn vị khác lên thay thế. Có cậu vừa thu dọn vừa đánh đàn mồm nhảy tưng tưng hát mấy câu trong bài hát: Đợi anh về: Em ơi! Đợi anh hoài em nhé, mưa có rơi dầm dề, ngày có dài lê thê… thì em ơi cứ đợi…!

Trời mới tờ mờ sáng. Hàng loạt đạn pháo của quân ta bay qua chốt rú lên ghê gớm, tiếp theo là những tiếng nổ chát chúa; và những cột khói bốc lên từ những điểm chốt của lính Pôn Pốt. Tiếng ầm ì của xe tăng quân ta từ phía sau bò tới, sau xe là lố nhố những cái nón cối. Tiểu đội được lệnh tiến thẳng lên tiêu diệt chốt của địch. Gần tới cái chốt đối diện với chốt của chúng tôi, bọn lính trong chốt dù có bị đạn pháo và xe tăng bắn phá. Chúng vẫn còn núp dưới các chiến hào, xả đạn ra xối xả; nhất là khẩu đại liên vẫn bắn rát rạt chỉ đến khi bị một quả B-41 của anh Thông tiểu đội trưởng bắn trúng bay cả nắp công sự chúng mới câm họng. Tôi đi bên anh cứ giương khẩu AK bắn điểm xạ vào những nơi thấy phát ra tiếng súng, và những chỗ nghi ngờ có địch ẩn nấp.

Với hỏa lực kết hợp mạnh của nhiều binh chủng, chẳng bao lâu quân ta đã đè bẹp và chiếm gọn những chốt tiền tiêu của bọn lính Pôn Pốt. Tiểu đội chúng tôi được lệnh ở lại thu dọn chiến trường. Đoàn quân kết hợp của ta vẫn hành tiến truy đuổi theo tàn quân địch. Sau khi đã lục lọi các công sự thu vũ khí; và kéo tử thi địch gom lại một chỗ. Cả tiểu đội tỏa ra xung quanh tìm kiếm tụi lính còn sống sót ẩn nấp. Tôi đi cặp kè bên anh Thông, bỗng anh đâm nhào người vào phía sau lưng tôi, làm tôi ngã úp mặt xuống đất. Tiếp theo là tiếng nổ, hơi nóng như lửa phả vào mặt, mảnh thân cây và đất đá bắn ra tung tóe. Tôi thấy tối tăm mặt mũi, khẩu AK văng ra một bên, anh Thông vội chụp lấy giương lên nhắm về phía trước xả hết băng đạn. Có lẽ tên địch bắn lén quả B-40 đã bị anh hạ gục. Lúc này anh mới lật ngửa người tôi lên gọi rối rít:

– Hoàng ơi! Hoàng…có sao không?

Tôi cố mở hai mắt đầy đất và máu me ra nhìn anh:

– Đau lắm… Sau lưng… Cái lưng!

Anh vội vạch áo tôi ra kiểm tra, anh bảo bị nhiều mảnh B-40 và mảnh cây mà thằng lính Pôn Pốn bắn trúng thân cây, văng ra găm đầy phía sau lưng. Miệng tôi thì nói leo lẻo nhưng hai chân chả hiểu sao không cựa quậy được. Vừa băng bó các vết thương, anh luôn miệng an ủi tôi:

– Không sao đâu Hoàng ơi! Chúng mình sẽ chuyển cậu về tuyến sau ngay.

Nằm quân y viện, được mươi ngày các vết thương tôi đã lành, duy có mảnh B-40 găm vào cột sống là không thể phẫu thuật, phải điều trị phục hồi gần cả năm trời mới đi đứng được. Tôi rất mừng khi nghe tin quân ta đã giúp quân giải phóng Căm-pu-chia; giải phóng hoàn toàn đất nước. Chấm dứt cảnh tàn sát đồng loại theo kiểu diệt chủng của bọn Pôn Pốt…

Tôi giật mình về cái vỗ vai hơi mạnh của anh Thông:

– Làm gì mà thừ người ra thế? Thời gian nhanh thật Hoàng nhỉ, mới đó mà đã bốn chục năm rồi.

Ngưng lại rít thêm hơi thuốc lá, anh nhìn tôi:

– Thế hồi đó cậu nằm viện bao lâu thì vết thương mới ổn định và đi được?

Tôi nhìn anh với cái nhìn đầy hàm ơn:

– Dạ, em nằm viện cả năm trời, mới tập tễnh đi được anh ạ.

Tôi nghiêng đầu qua vai anh thủ thỉ:

– Em còn sống là nhờ anh phát hiện ra thằng lính Pôn Pốt bắn B-40. Phản xạ nhanh anh đã đẩy em ngã sấp; chứ không thì em lãnh luôn quả B-40 của nó chắc tan xác rồi còn đâu.

Nắm chặt tay tôi, anh Thông cười nhỏ nhẹ:

– Đồng đội nào trong chiến tranh, gặp hoàn cảnh như vậy cũng đều phải làm như anh cả thôi. Ơn nghĩa cái gì Hoàng ơi!

Ngưng lại giây lát, vẻ trầm tư anh nhìn thẳng vào mắt tôi nói với vẻ bực tức:

– Mấy chục ngàn quân tình nguyện Việt Nam đã hy sinh trên mảnh đất Cam-pu-chia để giải phóng cho dân tộc Khơ Me thoát khỏi nạn diệt chủng của bọn Pôn Pốt. Vậy mà bây giờ có người, không hiểu họ nghĩ thế nào mà đòi xét lại cuộc chiến tranh của Việt Nam giúp nhân dân Cam-pu-chia xóa xổ bọn diệt chủng Pôn Pốt? Trong khi chính quyền đó đã bị cả nhân loại lên án.

Anh nhìn bâng quơ dọc hành lang, gật gù đầu nói chậm rãi:

– Lịch sử sẽ phán xét công bằng nhất.

TỐT ĐEN LẠC LOÀI

Mấy tháng nay ông đã tỉnh táo, sau cơn tai biến mạch máu não. Đứa con gái duy
nhất của ông từ ngoài miền Bắc đã vào Sài Gòn, đưa ông về quê sau ba mươi mấy năm lạc loài lang thang xứ người. Bố mẹ ông mất cũng đã lâu, và cả người vợ ông thương nhớ mong ngày gặp mặt, cũng chết vì bệnh ung thư mấy năm nay, để lại cho con gái ông căn nhà xập xệ. Chồng con nó cũng chả chịu lấy, cứ thui thủi một mình làm lụng. Sau bao năm dành dụm nó cũng xây được căn nhà ba gian lợp ngói; để bố con có chỗ mà trú mưa nắng. Đêm nào ông cũng trăn trở nhớ về những ngày tháng từng trải của cuộc đời ông; đã từng bị chiến tranh và người đời quăng lên vật xuống, để ngày hôm nay mới hơn năm mươi tuổi đầu đã phải nằm một chỗ chờ ngày về bên kia thế giới sum họp với vợ, cha mẹ, ông bà tổ tiên. Đôi khi ông cứ tự hỏi: “Con người ta có số mạng… hay có luật nhân quả như trong thuyết nhà Phật không? Chả biết kiếp trước cái nhân của ông thế nào, mà cái quả kiếp này phải trả nặng nề thế”? Những hình ảnh quá khứ nó cứ vật vờ đứt quãng hiện lên trong tiềm thức của ông…

Ông là con trai út trong gia đình có bốn anh chị em. Người anh cả đã bị tổng động viên vào chiến trường miền Nam biền biệt mấy năm; cho đến ngày nhận được tờ giấy báo tử: “Hy sinh anh dũng tại mặt trận phía Nam”. Ngày hòa bình, ông đã bước sang tuổi mười bảy. Mẹ ông cứ ôm tấm bằng liệt sĩ của người anh, và kéo đầu ông vào lòng xoa xoa mếu máo khóc:

– Con ơi, chắc chắn là con sẽ sống tới già để cha mẹ còn nhờ cậy lúc xế bóng; vì từ nay về sau sẽ chẳng còn chiến tranh chết chóc nữa rồi.

Thời gian cứ trôi đi trong bữa no, bữa đói vì đất nước sau chiến tranh; cảnh hợp tác xã cha chung không ai khóc. Học hết cấp hai ông phải ở nhà phụ cha mẹ đi làm công điểm trong hợp tác xã; vì bố ông mới trên năm chục tuổi đã mang trong người đủ thứ bệnh mãn tính, không còn sức lao động được nữa. Trong khi hai người chị gái đã có chồng ở xã bên.

Vừa đủ tuổi kết hôn theo luật định. Bố mẹ đã hối thúc ông phải cưới vợ, cô vợ cũng vừa bằng tuổi ông, cùng làng bên chồng bà chị gái lớn giới thiệu. Tròm trèm được một năm vợ ông sinh được đứa con gái kháu khỉnh; trong khi ông bà cứ ao ước có được đứa cháu nội trai. Ông nhấm nhẳng:

– Vợ chồng con còn trẻ, mai này bố mẹ muốn đẻ mấy đứa cháu nội trai cho ông bà mà chẳng được.

Đứa con vừa tròn một tuổi, ông bị gọi vào bộ đội; vì nghe nói đang xảy ra chiến tranh biên giới với Căm Pu Chia. Ngày tiễn con đi mẹ ông khóc lóc còn hơn lần tiễn người anh trai cả. Vì bà càng lo sợ biết đâu ông sẽ chẳng trở về như người anh trai của nó.
Sau mấy tháng huấn luyện, ông được bổ sung vào một sư đoàn đang đóng quân tại miền Bắc. Thi thoảng nghe đài nói về những vụ lộn xộn biên giới với Căm Pu Chia. Hình như tình hình đụng độ cứ tăng dần, khi hàng ngày đài, báo đưa tin về sự lấn chiếm biên giới và tàn sát dân Việt Nam của chính quyền Pôn Pốt. Có lẽ do Pôn Pốt làm tổng bí thư trở mặt đòi lật lại lịch sử và lấn đất. Nên đài báo không gọi nhà cầm quyền… mà kêu thẳng tên chính quyền Pôn Pốt. Ai cũng biết do sự xúi giục và chống lưng từ phía sau của nước lớn mà lúc nào cũng rêu rao bốn tốt…tình đồng chí với Việt Nam.

Một đêm đang ngon giấc, đơn vị báo động tập hợp quân lên xe tải ra ga tàu hỏa. Sau vài ngày đơn vị ông đã tập kết ở tỉnh Tây Ninh giáp biên giới Căm Pu Chia. Lúc này mọi người mới được phổ biến phải đánh thẳng qua Căm Pu Chia để lật đổ chính quyền Pôn Pốt. Dưới sự yểm trợ của máy bay, pháo binh, xe tăng… Các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam đã tiến đánh quân của Pôn Pốt như chẻ tre. Sau hơn một tháng, chính thể Pôn Pốt tan nát phải chạy về biên giới Thái Lan lập căn cứ. Bọn chúng dùng chiến tranh du kích để chống lại quân đội Việt Nam và chính quyền non trẻ Căm Pu Chia. Đơn vị ông phải ở lại để tiễu trừ bọn tàn quân Pôn Pốt.

Một lần tiểu đội ông vào khu rừng cách phum của dân cũng khá xa. Vì nghe dân báo đêm qua tụi lính Pôn Pốt lần về cướp gạo và thực phẩm. Vừa đi vào cửa rừng chẳng bao xa, bỗng hàng tràng đạn súng AK bắn phủ đầu. Theo phản xạ mọi người chỉ kịp nằm sấp xuống, giơ súng lên bắn về phía có tiếng súng nổ. Bỗng ông nghe tiếng nổ lớn kèm theo là sức nóng kinh khủng, đất đá bay lên bụi mù, hình như người ông cũng bị bay lên rồi vật xuống, và ông cứ cắm đầu chạy chẳng còn biết gì. Khi những giọt mưa xối xả thấm ướt hết người ông, kèm theo những tia chớp và tiếng sấm sét nổ đinh tai. Ông nghiêng người, đưa tay xuống vũng nước vốc từng vốc nước mưa đục ngầu uống ừng ực. Cựa quậy người thấy đang bị kẹt cứng trong bụi gai mây. À thì ra viên đạn B-40 đã thổi ông bay lên cùng sức nóng kinh khủng của nó làm ông hoảng loạn chạy nhảy lọt vào bụi mây rừng; vì vậy mà đồng đội không tìm thấy ông? Có lẽ họ nghĩ ông đã bị bọn lính Pôn Pốt bắt đi và chặt đầu ở một nơi nào rồi chăng?

Sờ soạn khắp mình mẩy không thấy chỗ nào bị thương, con dao găm còn giắt bên hông. Ông đưa tay rút con dao găm ra cắt từng sợi mây gai góc, hai bàn tay bị gai mây cào tóe máu. Gần nửa tiếng đồng hồ ông cũng chui ra khỏi bụi gai mây rừng to lớn. Dáo dác đưa mắt tìm khẩu súng, nó bị văng cách bụi gai mây vài mét. Ngồi dựa lưng vào gốc cây ông thở dốc, mặt trời lúc này đã đứng bóng. Ông không dám đi theo đường mòn tìm về đơn vị, vì sợ bị bọn lính Pôn Pốt phục kích. Cắt rừng về hướng đông, ông lầm lũi đi.

Đang lần mò vừa đi vừa phát cây, bỗng hiện ra ở phía trước khoảng sáng. Ông nhắm hướng đi tới, mừng rỡ khi trước mặt là một nương rẫy của dân. Thận trọng ông núp sau một gốc cây to, lên đạn khẩu AK chĩa về phía trước. Đảo mắt quan sát, không gian yên ắng chỉ có tiếng chim hót líu lo và rộn chuyện hơn cả là tiếng chim bìm bịp gọi nhau lúc xế chiều. Gió thổi lao xao những lá ngô đã ngả màu vàng; xen lẫn trong màu lá xanh của những cây sắn. Ông mừng rỡ bò ra rẫy, mới hay những bắp ngô đã bị bẻ hết. Lựa một gốc sắn to, lay thử nó chặt quá. Rút con dao găm bên hông, hì hục đào. Những củ sắn to bằng cổ tay người lớn được ông moi lên ba củ. Ông quay lại gốc cây ban nãy, lấy dao găm lột vỏ, đưa lên miệng cắn từng miếng to, nuốt vào tới đâu nó mát rượi tới đó. Ăn gần hết hai củ, ông chợt giật mình ngừng lại vì nghĩ đến chuyện những người bị ngộ độc sắn. Dựa lưng vào gốc cây vì ông thấy người khó chịu và buồn ngủ.

Giật mình tỉnh lại khi ông thấy mình đang nằm trên một chiếc giường tre, được trải bằng những bao ni lông mà người ta vẫn dùng đựng phân bón hóa học. Ngồi bên ông là một người đàn bà, đầu tóc rối bù với nước da ngăm ngăm đen. Vui mừng khi thấy ông tỉnh lại, bà xổ ra một tràng tiếng Khơ Me, ông mơ màng chẳng hiểu chi. Bà cầm tay ông chỉ xuống dưới giường, ông cố gắng nghiêng đầu nhìn theo. Thì ra cả một đống mì màu trăng trắng do ông đã nôn ra, mùi chua loét xộc lên mũi. Ông vội thụt đầu vào, nằm ngửa nhìn lên mái nhà được lợp bằng những tấm cỏ tranh. Nắm tay người đàn bà ông nói lời cảm ơn. Chả biết bà nghe có hiểu không, chỉ thấy bà mỉm cười. Để ông ngồi đó, xuống đất bỏ nắm lá xanh vào cái cối bằng cây bà cầm chày đâm lia lịa. Khi nắm lá trong cối đã nhuyễn nhừ, đổ miếng nước vào vắt lấy nước. Bà hối hả bưng nửa chén nước lá xanh, đỡ ông ngồi dậy ra dấu bảo ông uống. Ông nghĩ có lẽ bà cho ông uống thuốc giải độc củ sắn. Vì ông thường nghe người ta kể người dân tộc họ có nhiều bài thuốc lá hay lắm.

Mùi cháo thơm lừng xộc vào mũi, bà múc ra một cái tô to không quên đập vào một quả trứng gà cùng những lá hành và những lá cây có mùi thơm cay cay đã sắt nhỏ. Bưng tô cháo lại giường, bà đỡ ông ngồi dậy, bón từng thìa cháo vào miệng ông. Ăn được nửa tô cháo người ông cứ vã mồi hôi như tắm. Bà nhỏ nhẹ nói tiếng Khơ Me tay múc cháo, mắt nhìn ông trìu mến. Ông hiểu bà động viên ông phải ăn hết tô cháo thì mới hết bệnh.

Ăn xong tô cháo, bà lấy khăn lau hết mồ hôi trên mặt và người ông. Ông chỉ biết nhìn bà trìu mến và nắm tay bà nói lời cảm ơn. Hình như bà cũng hiểu chỉ thấy bà gật gật đầu mỉm cười. Bà đặt ông nằm xuống ra dấu bảo hãy ngủ đi cho khỏe.

Khi ông tỉnh giấc thấy người khỏe khoắn hẳn ra; có lẽ trời đã về đêm, cả ngôi nhà nhìn mờ ảo nhờ có ánh trăng bên ngoài rọi vào. Không gian yên ắng tĩnh mịch chỉ nghe tiếng chim rù rì gọi nhau rỉ rả. Nhìn qua nhìn lại không thấy bà đâu, thì ra bà đã nằm ngủ say sưa dưới nền đất được trải mấy cái bao. Ông ngồi dậy ngắm nhìn bà say đắm, trong lòng dậy bao nỗi hàm ơn. Cúi người xuống ông lấy tay vỗ vào người bà. Mở mắt bà nhìn, một tay vừa kéo bà tay kia ông chỉ lên giường. Bà nhỏ nhẹ trả lời bằng tiếng Khơ Me ý ngại ngùng; nhưng ông cứ kéo bà lên và ông ra dấu là ông sẽ xuống đất ngủ để bà lên giường. Bà leo lên giường ra dấu bảo ông nằm xuống và bà cùng nằm xuống bên cạnh. Đêm cuối năm tiết trời lành lạnh. Mới đầu họ còn nằm cách khoảng nhau ra. Khi đã ngủ say họ cứ xích lại gần nhau; hơi ấm đã truyền qua nhau, và họ cứ ôm chặt lấy nhau do bản năng.

Một anh lính lạc đơn vị, một người đàn bà góa bụa do bị tụi lính Pôn Pốt đã giết chết cả chồng, con trốn chạy vào trong rẫy gặp nhau. Dù không hiểu tiếng nói của nhau; nhưng qua hành động và cử chỉ họ đã sống với nhau như vợ chồng. Ban ngày ông phụ bà làm rẫy, có gì thì ăn nấy. Lâu lâu bữa ăn cũng được vài miếng thịt do ông gài bẫy bắt được; khi thì con gà khi thì con chuột hoặc con chim gáy. Thi thoảng có người ghé thăm bà là ông lại phải trốn vào trong rẫy. Đôi lần thấy bộ đội Việt Nam hay Căm Pu Chia đi ngang, ông cũng lẩn trốn không dám ra trình diện. Thực lòng ông chẳng hề muốn cầm súng nữa vì ông sợ chết. Điều đang âm ỷ trong tâm trí của ông lúc này là làm sao tìm cách để về Việt Nam.

Chả hiểu vùng này hoang vắng ít người hay sao mà lắm chồn đến thế. Có đêm chúng mò vào chuồng gà, đã được ông đóng lồng chắc chắn. Tụi gà cứ bay lên loạn xạ và kêu quang quác. Ý nghĩ bật lên trong đầu ông, tiền là đây chứ đâu. Suốt ngày ông chặt cây ngồi hì hục đóng lồng làm bẫy. Khi được một cái ông đem bẫy thử, ngay đêm đầu đã dính một chú chồn mướp nặng gần hai ký lô gam. Hai người được ăn mấy bữa toàn thịt. Làm thêm cái bẫy nữa, đêm nào cũng dính từ một đến hai con. Ông ra dấu bảo bà đem đi bán, bà chỉ cười và ngoan ngoãn nghe lời ông. Chưa đầy một tháng đặt bẫy nhẩm tính ra số tiền đã kha khá, ý nghĩ trở về Việt Nam càng thôi thúc ông.

Cả đêm hai người thức trắng rì rầm bên nhau; vì biết rằng sáng mai ông sẽ tìm đường về Việt Nam. Đã ăn ở với nhau cả mấy tháng trời, họ có thể nói tiếng của mỗi người cho nhau nghe bằng những từ đơn giản. Nhưng vấn đề tình cảm phức tạp họ chỉ biểu hiện bằng cử chỉ và ra dấu, lúc này họ chỉ biết ôm nhau mà chảy nước mắt. Cả hai đều biết rằng, chia tay rồi sẽ khó có ngày gặp lại. Mới tờ mờ sáng bà đã nấu nồi cơm với thịt chồn phơi khô nướng. Khi dọn cơm cho ông ăn, ông bảo bà cùng ăn nhưng bà cứ lắc đầu, nước mắt chảy vòng quanh nhìn ông ăn. Thi thoảng bà cầm đũa gắp thêm thịt bỏ vào chén hối ông ăn. Nhìn bà ông nghèn nghẹn cố nuốt cho trôi những miếng cơm; khi bà chỉ vào bụng bà và ra dấu. Ông hiểu tất cả, nhưng còn cha mẹ, vợ con bên Việt Nam đang từng ngày trông ngóng ông trở về. Lúc sắp bước ra khỏi nhà bà đưa cho ông bọc tiền mà bấy lâu nay bà bán những con chồn ông bẫy được. Mở bọc tiền ra đếm, ông lẩm nhẩm lấy ước chừng đủ số tiền về Việt Nam, còn bao nhiêu ông đưa cho bà. Bà cứ lắc đầu nguây nguẩy không chịu cầm, ông nói mãi chẳng được đành vào trong nhà nhét mớ tiền còn lại vào mái tranh. Bà nhìn ông mà nước mắt cứ tuôn ướt đầm hai gò má.
Phía chân trời vừa ửng hồng, hai người cũng đi tới đường có xe chạy. Trong lúc chờ xe đò, ông bà cứ ôm lấy nhau mà nước mắt chảy dài ướt cả vai áo của nhau. Nhìn thấy chiếc xe từ xa, đưa một tay ngoắc xe mà tay kia ông vẫn nắm chặt tay bà không muốn rời. Khi xe chuyển bánh ông mới buông tay bà ra, bà chỉ biết quệt nước mắt đứng vẫy vẫy tay cho đến khi chiếc xe đã khuất.

Lên xe, xuống xe hai ba chặng, ông mới tới được biên giới Việt Nam khi trời đã ngả bóng xế chiều. Vào vội một quán cơm bên đường do một người Việt làm chủ; vừa ăn ông vừa tỉ tê hỏi chuyện người bán hàng, có cách nào vượt biên giới về Việt Nam mà không phải qua cửa khẩu không? Chị bán hàng mỉm cười:
-Chú cứ ăn uống thoải mái đi, thích đi lúc nào tôi ới một tiếng, là có xe máy ôm chở chú vượt biên chứ có gì khó đâu.

Quả đúng như lời chị chủ quán nói, anh xe ôm vui vẻ chở ông về Việt Nam có mấy cây số, mà ăn năm chục đồng. Ông chặc lưỡi: “Thây kệ miễn sao khỏi bị bắt ở cửa khẩu là tốt rồi”.

Qua cửa khẩu Tây Ninh trời cũng đã nhập nhoạng tối, ông đón ngay xe đò về Sài Gòn. Theo ông nghĩ: “Chỉ có ở Sài Gòn thì họa may mới luồn lách và sống nổi.” Khi xe đổ ông ở bến cuối cùng là chợ Bến Thành, trời đã chuyển qua đêm, ông lang thang trên mấy con đường. Đập vào mắt ông là hình ảnh những người nằm ngủ trên hè phố dưới mái hiên nhà. Ông đoán có lẽ họ vô gia cư như mình, thế là ông xà xuống bên một cặp vợ chồng già tỷ tê hỏi chuyện. Khi ông ngỏ lời muốn ngủ đỡ qua đêm ở đây. Ông già ngồi dậy nhìn ông nhếch mép cười:

– Có khó gì đâu chú, chỉ cần mướn chiếc chiếu một đêm năm đồng là chú có chỗ ngủ chứ gì.

Và rồi ông già gọi ơi ới cái bà đang nằm ở góc cột điện. Bà nhanh nhẩu cầm tới cho ông một chiếc chiếu đã muốn rách và không quên thu trước năm đồng. Cả ngày đi đã mệt mỏi, vậy mà đêm nay ông vẫn trằn trọc vì lạ chỗ, phần nghĩ về cuộc sống ngày mai sẽ sao đây. Cũng may ông già nằm kế bên vì già cả ít ngủ, hay tại đêm lạnh mà cứ húng hắng ho. Khi nghe ông hỏi chuyện ông lão cũng chả giấu giếm gì về việc bán vé số của vợ chồng già. Nghe vậy ông năn nỉ xin ông lão giới thiệu cho chỗ lấy và cách bán vé số. Trở mình nghiêng đầu qua phía ông, lão thủ thỉ:

– Vợ chồng tôi cũng già rồi, ruộng nương thì không có, con cái chúng lo thân chúng còn chẳng xong làm sao lo cho cha mẹ. Ở dưới quê già cả còn sức đâu mà đi làm thuê làm mướn nổi. Đành dắt díu nhau lên đây bán vé số, nói chung cũng sống qua ngày, nếu chịu khó và tằn tiện thì may ra mỗi tháng cũng dư chút đỉnh tiền.

Ngừng lại vì cơn ho, dứt cơn ho ông lão thò tay qua vỗ vào người ông:

– Muốn bán vé số thì chú phải mặc bộ đồ khác, chứ mặc đồ bộ đội rách rưới thế này làm sao bán được. Thôi thế này, nếu chú không chê, mai tôi cho chú mượn bộ đồ của tôi. Khi nào mua được bộ khác chú trả tôi cũng được.

Lần đầu tiên cầm tập vé số trong tay, ông thấy ngường ngượng làm sao. Nhưng vì cuộc sống ông cứ phải đi vào các bến xe, nhà hàng, công viên… Mặc bộ đồ của ông lão cho mượn, nhìn ông đã già hẳn ra dù mới hai mươi mấy tuổi. Trời Phật phù hộ độ trì, ngày đầu ông cũng bán được gần hai trăm tờ vé số.

Thời tiết Sài Gòn nắng mưa bất chợt, ban ngày đang nắng chang chang; đêm bầu trời đầy trăng sao vậy mà phút chốc mây đen ùn ùn kéo tới, những cơn mưa xối xả ập đến. Đã nhiều đêm ông phải ôm chiếu, đồ đạc chạy trối chết tới núp dưới mái hiên nhà vì mưa. Có nhiều ông bà chủ quá quắt không cho núp nhờ mưa thì thôi; còn mở cửa chửi bới đuổi mọi người phải ôm đồ ướt lướt thướt trong cơn mưa tìm chỗ trú khác.

Do đi bán vé số phải đi nhiều nơi, nên ông thấy nhiều người lấy gầm cầu làm nhà. Nên ông cũng bỏ khu bến xe về ở dưới gầm cầu, nơi có những người không nhà cửa; dựng túp lều bằng bao ni lông và những mảnh thùng giấy cạc tông, hoặc nhựa… Cũng nào có yên thân đâu, lâu lâu còn bị cảnh sát, dân phòng kiểm tra và bị mời lên phường. Nhưng rồi họ cũng phải cho về vì ở đây toàn những người tứ cố vô thân từ vùng kinh tế bỏ về; hoặc dân quê từ khắp mọi miền của đất nước đổ về thành phố kiếm miếng ăn. Họ biết là vất vả nhưng dù sao cũng còn có đồng ra đồng vào. Chứ ở vùng kinh tế mới, nông thôn đôi khi mùa màng thất bát, đến cơm độn khoai sắn còn chả có mà ăn.
Sát bên lều ông, một người đàn bà cũng gần ba mươi tuổi nói giọng miền Trung. Nghe đâu ham đề đóm, bài bạc mà bán cả nhà cửa ruộng vườn, chồng con cũng phải bỏ. Cùng cảnh ngộ, ngày nào cũng đụng mặt nhau. Chẳng cần nói nhiều họ đã dồn lều lại ở với nhau chung sống như vợ chồng.

Bao nhiêu năm bán vé số tằn tiện, cứ khi nào dành dụm đủ một chỉ vàng là ông lại ra tiệm vàng mua; vì có giấy tờ gì đâu mà gửi ngân hàng. Đôi khi nghĩ về cha mẹ, vợ con ông muốn gửi ít tiền về giúp họ, nhưng ông lại sợ lòi ra tội đào ngũ, chắc chắn họ sẽ bắt ông đi học tập cải tạo. Nên ông cứ nén nỗi đau trong lòng, nhiều khi đêm không ngủ được ông cứ ngồi nhìn mông lung ra dòng sông, hoặc ngước mắt lên nhìn trời đầy những vì sao mà nước mắt cứ ứa ra. Cách nhau đâu có bao xa, chỉ cần lên tàu là hai ngày sau ông sẽ về tới nhà, được nhìn thấy cha mẹ, vợ con. Vậy mà ngay đến một lá thư ông cũng không dám viết.

Bỏ vàng vào người thì sợ đánh rơi hay bị móc túi. Cách tốt nhất là cứ gói vào bịch ny lông, chôn xuống dưới chỗ kê tấm ván làm giường ngủ. Ngay cả mụ vợ hờ ông cũng dấu không hề cho biết. Có lần theo xe buýt về mấy huyện ngoại thành bán vé số. Thấy bảng ghi bán đất, hỏi ra mới hay số vàng tích cóp bao nhiêu năm cũng đủ mua được miếng đất có chiều rộng năm mét, chiều ngang mười mấy mét. Thế là ông về đào vàng lên mang bán và mua miếng đất. Chưa có tiền thì cất tạm căn nhà bằng toàn đồ ve chai thu gom được; hoặc mua ngoài vựa ve chai. Bà vợ hờ lúc này cũng lẽo đẽo theo ông về ở căn nhà mới. Chẳng hề đóng góp đồng nào, vì cứ làm được đồng nào là máu cờ bạc, đề đóm còn hằn sâu trong bản tính. Nên ngày nào đi bán quần quật suốt ngày về đến nhà là lại trắng tay. Họa hoằn lắm cũng đưa cho ông được ít đồng gọi là góp gạo thổi cơm chung; khi ông chịu không nổi cằn nhằn.

Nắng nôi, mưa gió, ăn uống thất thường đã làm cho khuôn mặt ông đen sạm và nhìn như một lão già. Đưa tay cầm tập vé số chìa ra trước mặt một ông khách, đang ngồi nghỉ chân trên ghế đá trong công viên Tao Đàn. Người khách cứ nhìn chằm chằm vào khuôn mặt ông, bất chợt hỏi:

-Này, anh có phải là Tạo đơn vị…?

Tập vé số trên tay ông rơi xuống đất; vì sự bất ngờ có người gọi đúng tên cúng cơm mà cả chục năm nay ông cố giấu giếm, tự thay cho mình một tên khác. Vì lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ bị bắt và bị truy tố về tội đào ngũ. Người đàn ông đứng dậy đưa hai tay nắm hai vai ông, xoay qua xoay lại. Bất chợt ông ta ôm lấy ông mừng rỡ:

-Đúng là Tạo rồi, vết sẹo to như đầu ngón tay cái trên cuối mi mắt phải, làm sao mà lầm được.

Vừa nói ông ta vừa kéo ông ngồi xuống ghế đá. Bây giờ thì ông mới tĩnh tâm lại. À thì ra anh Tâm tiểu đội trưởng của ông người cùng huyện khác xã. Trong trận bị lính Pôn Pốt phục kích có cả ông Tâm. Hai người cứ xoắn xít kể lể hoàn cảnh mỗi người cho nhau nghe. Thì ra sau khi bị phục kích, bọn lính Pôn Pốt bỏ chạy, đơn vị tìm kiếm mãi mà không thấy ông, họ nghi ông bị lính Pôn Pốt bắt theo đem vào rừng chặt đầu. Cả mấy ngày sau đơn vị cử người đi tìm cũng không thấy xác ông. Nên đã báo cáo lên cấp trên là ông bị mất tích. Khi quân đội Việt Nam rút khỏi Căm Pu Chia, ông Tâm đã xin chuyển ngành; hiện ông đang làm giám đốc một nhà hàng ở một quận nội thành. Khi biết hoàn cảnh dù không còn vật vạ ngủ hè phố, gầm cầu nữa, bởi bao nhiêu năm tằn tiện ông đã mua được miếng đất ở ngoại thành, và có căn nhà dù nhà xập xệ. Hiện đang sống với một người đàn bà quê miền Trung cùng cảnh ngộ bán vé số. Nghe kể lể hoàn cảnh, ông Tâm vỗ vai ông:

-Cậu còn sống là phúc đức lắm rồi. Mình sẽ sắp xếp cho cậu một chân trong nhà hàng mà mình đang phụ trách. Chứ ai lại…Trai tráng khỏe mạnh thế này mà cứ suốt ngày lang thang ngoài đường bán vé số coi sao được.

Ông cảm động ngập ngừng:

-Nhưng…tôi không có giấy tờ gì cả?

Ông Tâm mỉm cười, bàn tay phải vỗ vỗ vào vai ông:

-Yên tâm… mấy khoản đó cậu cứ để mình lo cho.

Bao nhiêu năm núp danh dưới những cái tên giả, nửa mảnh giấy chứng minh là một con người cũng chẳng có. Nhờ có ông Tâm giám đốc nhà hàng ăn uống nổi tiếng giữa đô thị Sài Gòn này, ông đã được mang chính cái tên mà khi sinh ra bố mẹ đã đặt cho. Chả hiểu ông Tâm đã chạy vạy về đơn vị gốc xác nhận làm sao. Cứ hỏi thăm thì ông Tâm lại cười:

-Cậu cứ lo công tác tốt là được rồi, hoàn cảnh của cậu đáng thương hơn đáng trách.

Ông bà ta xưa nay đã đúc kết: “dời non dời núi… bản chất con người khó dời”. Người vợ hờ ông cặp kè hàng chục năm nay vẫn lẽo đẽo theo ông. Làm được bao nhiêu tiền là bà ta lại bài bạc, đánh số đề hết, thậm chí ăn uống cũng ăn bám vào ông. Nhớ có lần vừa đi làm về, cơm nước bà cũng chả nấu cứ nằm chình ình trên giường, hỏi sao cũng không thèm trả lời. Ông đành phải tự nấu lấy mà ăn, cãi vã lắm cũng mỏi mồm. Đang lui cui trong bếp, nghe tiếng gõ cửa. Vội chạy ra mở cửa, trước mặt ông là ba thằng con trai xăm trổ đầy mình. Kẻ cầm gậy, kẻ cầm dao… một thằng tay chống nạnh hất hàm hỏi ông:

-Này lão già, có phải đây là nhà mụ Năm không?

Ông còn đang ấp a ấp úng; thì một thằng đã đưa chiếc gậy chỉ vào mặt ông:

-Lão già có khôn hồn thì bảo con mụ nhà ông trả tiền cho tụi tao, không thì chúng tao đập nát căn nhà này, và cả thân già tụi bay cũng không yên đâu.

Cứ vài ngày mấy thằng đòi nợ thuê tay gậy, tay dao tới chửi bới, hăm dọa ông. Đến nước này thì ông phải bán căn nhà với giá rẻ mạt để trừ nợ cho tụi vay nặng lãi; vì mụ vợ hờ ham số đề, bài bạc đã vay tụi nó một vốn bốn lời.

Ông cắn răng dứt khoát chấm dứt mối tình hờ với con mụ suốt đời chỉ phá của. Sau bao nhiêu năm lăn lóc trốn tránh, kiếm miếng cơm manh áo, tinh thần lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị bắt và phải đi tù, nên thể xác và sức khỏe xuống sức già trước tuổi. Bây giờ lại trắng tay thành kẻ không nhà cửa; phải thuê phòng trọ chật chội và nóng bức trong một con hẻm nhỏ. Sức khỏe và tinh thần của ông càng xập xệ hơn.

Thường thường sáng nào cái ông mướn phòng số hai của khu trọ này; cứ khi ông mặt trời chưa ló mặt là ông đã thức dậy tập thể dục. Vậy mà cả ngày nay cửa phòng ông vẫn đóng im ỉm, linh tính có chuyện không hay, mấy người cùng khu trọ báo cho chủ nhà. Tìm mọi cách phá cửa ra thì, trước mặt họ ông đang nằm cò quăm, mắt nhắm nghiền, môi thâm tím. Sờ vào người còn thấy hơi thở thoi thóp. Vội vàng họ kêu xe cấp cứu chở tới bệnh viện, mới hay ông bị cơn đột qụy.

Sau mấy ngày mê man. Hôm nay đầu óc tuy còn lơ mơ ông mở mắt nhìn quanh; chợt tỉnh táo khi nghe ông Tâm đồng đội cũ của ông rối rít gọi:

-Lan ơi… Lan…! Bố cháu tỉnh rồi nè!

Chạy lại bên ông là người con gái đưa tay quệt nước mắt, miệng cười méo xệch; bất chợt cô ôm chặt lấy ông mếu máo rối rít gọi:

-Bố!… Bố ơi!

Và rồi cô ôm chặt lấy ông thổn thức khóc. Nước mắt ông cứ tuôn ra, trộn vào nước mắt của đứa con gái chảy xối xả xuống hai gò má nhăn nheo của ông.

NAI VỀ PHỐ

Kể từ ngày cắp sách đến trường, trong thâm tâm Nụ lúc nào cũng mơ ước, cố gắng học hết phổ thông sẽ thi vào ngành sư phạm để được làm cô giáo. Mười mấy năm trời bữa đói bữa no, ngày học cấp một và cấp hai trường gần nhà thì đi bộ. Lên đến trung học phổ thông, trường cách nhà năm sáu cây số; nắng cũng như mưa ngày nào cũng lẽo đẽo đạp cái xe đạp cà tàng tới trường. Trời không phụ công sau khi thi đỗ trung học, Nụ thi vào trường trung cấp sư phạm; đã thỏa lòng mơ ước mười mấy năm cắp sách tới trường.

Ra trường, cầm mảnh bằng tốt nghiệp hí hửng về quê. Và rồi cứ làm đơn xin hết nơi này đến nơi khác. Gần hai năm trời ở nhà phụ cha mẹ ruộng nương, cứ thấp tha thấp thỏm trong chờ đợi. Đôi khi đang nhặt cỏ rau thấy ông bưu điện là ba chân bốn cẳng chạy ra hỏi xem có thư báo gì không. Mười lần hỏi là mười lần tiu nghỉu.

Có lần đi hỏi kết quả sau bao lần đi tới đi lui; gặp một người đàn bà cũng đi hỏi kết quả cho con, thật thà ghé tai Nụ bà thì thầm:

-Thương cô tôi nói thật, nếu cứ vác đơn đi xin việc như cô thì vác cả đời, chả có ma nào nhận cho đâu. Bây giờ ở cái xã hội này hở ra cái gì cũng tiền, không có tiền thì cứ giương mắt ếch ra mà chờ.

Lân la hỏi thăm nghe họ nói đâu phải mất cả trăm triệu thì mới có nơi nhận. Nước mắt ngắn nước mắt dài về kể lại cho bố, mẹ nghe. Mẹ Nụ thở dài:

-Con thấy đấy, mỗi người tính theo đầu người có sào mấy ruộng Bắc Bộ, vị chi nhà bốn miệng ăn được năm sào. Làm mửa mật ra mới có ngày ba bữa cơm mà ăn. Có chăng nuôi thêm được con lợn, con gà… thì tiền giỗ chạp, đám cưới đám xin trong họ, ngoài làng còn phải chắp vá. Có phải bao nhiêu đó đâu, ngoài ra còn phải đóng bao nhiêu thứ, và lệ phí mà địa phương nó quàng vào cổ nữa chứ.

Hai hàng nước mắt lăn dài trên hai gò má nhăn nheo, đầy những tàn nhang của mẹ cô, dù bà chưa tới tuổi sáu mươi. Chép miệng bà thở dài:

-Đập chết trong nhà này chỉ có được vài triệu
phòng khi hữu sự là quý rồi; làm gì có cả trăm triệu. Lương giáo viên một tháng mấy triệu bạc, chạy chọt thành cô giáo rồi thì mấy năm đi làm công chùa cho chúng nó ăn à?

Ông bố từ nãy giờ cứ ngồi hút thuốc lào vặt, nghe hai mẹ con nói chuyện. Dằn mạnh cái điếu cày xuống nền gạch nghe cái cộc. Bực mình ông chửi đổng:

-Đèo mẹ..! Cái xã hội khốn nạn, cái gì cũng đòi ăn. Vậy mà cứ suốt ngày ra rả về tính ưu việt.

Thế là cứ suốt ngày Nụ ở nhà phụ cha mẹ đồng áng, lợn gà, cơm nước… Vào vụ cấy gặt phải ra đồng nắng, mưa nước da đen sạm. Sáng sáng nghe những tiếng í ới, của những đứa trẻ hàng xóm gọi nhau đi học mà nước mắt cứ chảy vòng quanh. Tủi thân vì mười mấy năm ăn học bây giờ đã hai mấy tuổi đầu vẫn còn ăn bám cha, mẹ.

Phong tục của người Việt Nam được mấy ngày tết, nơi đồng quê nghèo khó này mới gom mặt gần như đầy đủ những người làm ăn nơi xa trở về. Trong đó cũng có những người bạn của Nụ. Gặp nhau tỉ tê hỏi thăm mới biết các bạn bè vào Sài Gòn phần nhiều là làm thuê trong các khu công nghiệp. Nghe nói một tháng cũng được dăm ba triệu dù vất vả và tăng ca. Thôi thì dù sao cũng còn hơn cái nơi đồng ruộng nửa chiêm nửa mùa này, chưa mưa đã ngập chưa nắng đã hạn. Nhiều khi đồng vốn quăng ra ngoài đồng, nai lưng làm còn bị lỗ vốn vì thiên tai, địch họa.

Chẳng biết may vá chi, mới vào đành phải xin cắt chỉ cho một cơ sở may gia công. Làm việc từ tám giờ sáng đến tám giờ tối mới được nghỉ, lương tháng chủ chỉ trả cho bốn triệu bạc. Để tiết kiệm bốn chị em gái mướn chung một phòng mười mấy mét vuông. Mọi sinh hoạt từ nấu nướng. vui chơi… cũng chỉ có nhiêu đó. Thường thường mười giờ đêm mọi người mới tắm rửa, ăn uống xong. Gom tất cả các thứ vào góc phòng, trải manh chiếu lớn, giăng cái màn to; thế là chui vào mạnh ai nấy ngủ say như chết, vì ban ngày họ đã bị vắt kiệt sức.

Làm cả năm trời đã học may gia công rành nghề mà chủ cũng chỉ cho thêm mỗi tháng được triệu bạc; trong khi chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội không hề có. Nghe lời bạn bè Nụ nghỉ việc, xin vào làm trong một xí nghiệp của người nước ngoài làm chủ. Ở đâu thì cũng vậy, họ bỏ đồng tiền ra thì họ phải tìm mọi cách vắt sức lao động của người làm thuê. Công việc nói làm tám tiếng chứ thực chất tăng ca có khi trên mười tiếng đồng hồ. Bình thường thì được bữa cơm trưa có phiếu xuống căng tin ăn. Nói là cơm cho nó oai chứ thực tế mười lăm ngàn đồng một bữa ăn, lại qua đầu nậu đấu thầu nữa thì bữa cơm chả còn ra hồn. Nhưng mệt, đói mọi người cũng cứ nhắm mắt cố mà nuốt cho trôi. Hôm nào tăng ca thì cũng được ăn thêm một bữa cơm tương tự. Khổ một nỗi cái lão chủ người nước ngoài keo kiệt này, nghĩ ra cách tận dụng sức lao động của công nhân tối đa bằng cách ra điều luật: Mỗi ngày một công nhân chỉ được đi vệ sinh hai, ba lần mà phát tích kê hẳn hoi. Ai đi vượt số lần quy định sẽ bị phạt trừ vào lương. Thành thử khi đi làm chả ai dám uống nước nhiều vì sợ mót đái đi nhiều lần bị phạt.

Bị chủ bóc lột sức lao động gần như cạn kiệt, ăn uống thì thiếu thốn; nhưng với sức con gái đang tuổi xuân thì, Nụ vẫn cứ nẩy nở nét xuân. Một chiều chủ nhật đi dự đám cưới của người bạn làm chung xí nghiệp, có một chàng trai trẻ ngồi bàn bên cạnh cứ nhìn trộm hoài. Tan tiệc anh ta ra đứng trước cửa nhà hàng đợi; khi thấy Nụ đi ra anh ta bám theo. Trên đường ra chỗ gửi xe chưa tới một trăm mét, anh ta săn đón hỏi hết chuyện này đến chuyện kia. Nụ cứ đỏ mặt ấp úng trả lời.

Vài ngày sau khi tan ca chiều về nhà, Nụ đang ngồi thở bên cái quạt máy, vì Sài Gòn đang vào mùa khô, cái nóng cứ như phả lửa vào mặt. Tiếng chuông điện thoại vang lên; cầm vội chiếc máy liếc qua thấy số lạ, nhưng vì lịch sự Nụ vẫn:

-A lô… xin lỗi ai đấy ạ? Vang lên tiếng con trai:

-À… à… Xin lỗi em nha, có được số điện thoại của em là nhờ chú rể đám cưới hôm nọ cho; vì nhà anh ở cùng xóm và là bạn của chú rể mà.

Từ cú điện thoại đó, hai người đã hẹn hò nhau đi ăn uống mỗi khi rảnh rỗi. Dần dà tình cảm đã nảy sinh trong Nụ. Đôi lần anh ta dẫn Nụ về nhà chơi, lúc này Nụ mới hiểu rõ hoàn cảnh gia đình. Anh ta có hai người chị đã lấy chồng ở xa. Chỉ còn bà mẹ và người cha ở nhà, nhưng người cha cứ đi nhậu nhẹt suốt ngày. Chả là nhà có nhiều đất do ông bà để lại; kể từ dạo đất sốt, người cha bán bầy bò sữa, và bán dần mấy miếng đất trồng cỏ cho bò ăn. Thành thử bỗng chốc có tiền tỷ trong tay, ông chỉ nhậu nhẹt suốt ngày. Vì theo ông bảo, bao năm nay mình nai lưng trâu nuôi bò sữa; cho mấy công ty độc quyền làm giàu vì bị ép giá. Nên năm nào cũng nghe họ thông báo lãi hàng ngàn tỷ, thực chất là họ lãi trên mồ hôi nước mắt của dân lao động? Cứ mỗi lần nhậu say về nghe vợ cằn nhằn, là ông lè nhè chửi:

-Ông đếch thèm làm nữa đó, mình có ruộng trồng cỏ, nuôi bò cho chúng nó ngồi mát ăn bát vàng hả? Toàn một lũ núp danh ăn trên mồ hôi nước mắt của dân lao động, chứ tử tế gì…?

Một lần Nụ ghé thăm không thấy anh ta ở nhà, hỏi thì bà má thở dài:

-Nó đi từ sáng tới giờ đã về đâu, chắc lại nhậu nhẹt với bạn bè.

Bà ngậm ngùi nắm tay Nụ:

-Bác biết cháu với nó yêu nhau, bà thở dài: Nhưng bác thấy cháu hiền lành bác cũng nói thiệt. Nó ỷ nhà có đất đai, ông nhà này cứ bán dần và suốt ngày ăn nhậu; vì vậy khi học hết lớp chín, thi vào lớp mười không đủ điểm. Ở nhà nó cứ lơn tơn theo bạn bè lêu lổng suốt ngày, bác mới bàn với ông nhà cho nó đi học nghề sửa xe máy. Ai ngờ học chưa được một tháng, nó bảo không thèm học cái nghề suốt ngày dầu nhớt dính đầy quần áo thấy phát ớn ấy nữa.

Ngừng lại giây lát, uống thêm ngụm nước trà đá, bà thở dài:

-Nó ở nhà một thời gian, bác la quá cũng phải xin vào xí nghiệp làm. Được đồng nào ăn hết đồng nấy, còn xin thêm tiền nhà nữa chớ. Có la nó nhăn nhăn mặt:

-Má biết cái gì, lương dăm triệu bạc một tháng; tính ra mỗi ngày trăm mấy đồng bạc không đủ một bữa nhậu nữa là…

Càng nghe bà má kể về người Nụ đã trót trao thân, nước mắt tự dưng cứ trào ra. Thôi thì cũng đành vừa khóc vừa kể sự tình lỡ thương yêu; và nghe lời đường mật của ảnh mà nay Nụ đã có bầu bốn tháng. Chỉ mong sao ba má thương tình thu xếp. Nghe nói và nhìn Nụ khóc, không cầm nổi lòng bà rơm rớm nước mắt vỗ vai Nụ:

-Nếu đúng như vậy để má bàn với ổng lo sắp xếp đám cưới, chứ đâu để thế này sao được. Mà má nói trước tánh tình nó lông bông quen rồi, nếu con lấy nó mà nó thức tỉnh lo làm ăn thì phước đức cho gia đình má và con… Bà thở dài bỏ lửng câu nói.

Ngày ra tòa ly hôn, Nụ ẵm cả đứa con gái ba tuổi đi theo. Ngồi bên Nụ là bà mẹ chồng, bà cứ chảy nước mắt ngắn nước mắt dài mà ôm lấy cháu nội. Sau nhiều lần hòa giải không thành, hôm nay tòa quyết định cho hai người được ly hôn, đứa con sẽ được mẹ nuôi vì còn nhỏ; nhưng bên chồng phải phụ cấp hàng tháng. Nụ quệt nước mắt vì mừng và tủi sau khi tòa đọc quyết định. Gần bốn năm trời chung sống bên người chồng vô tâm, chỉ thích ăn chơi phá của mà còn hành hạ chửi bới vợ con. Dù được người mẹ chồng thương yêu, nhưng có chồng là sống với chồng chứ đâu phải sống đời với mẹ chồng.

Từ ngày Nụ bỏ chồng nỗi cực nhọc càng chồng chất, vì phải gồng gánh và nuôi đứa con còn nhỏ. Sáng nào cũng phải thức dậy sớm, chuẩn bị bữa ăn cho con và cho mình. Tất tả chở con đi gửi nhà trẻ, còn Nụ lại vội vã vào xí nghiệp cắm đầu cắm cổ mà làm. Người ta bảo: “Gái một con trông mòn con mắt”, nhưng với Nụ vất vả quá sức đang từ cô gái xuân thì mây mẩy, bây giờ người gày đét càng ngày càng quắt queo lại.

Gần một tháng nay, Nụ cứ khúng khắng ho và sốt vào buổi chiều, người mệt mỏi rã rời chân tay. Có hôm đang làm ngất xỉu ngay trên bàn máy may phải đi cấp cứu. Sức khỏe cứ suy kiệt dần, đi khám bác sĩ qua nhiều chuyên khoa, kết quả Nụ đã bị nhiễm lao phổi. Liệu trình điều trị uống thuốc sáu tháng liên tục, ba tháng đầu phải nghỉ ngơi để dưỡng sức. Đến nước này Nụ phải điện thoại thông báo cho bố mẹ ngoài quê. Bà mẹ già trên sáu mươi tuổi cũng mang trong người mấy bệnh mãn tính; lật đật đi tàu hỏa vào Sài Gòn. Nhìn đứa cháu ngoại gái gày gò vì suy dinh dưỡng. Chùi nước mắt bà mếu máo nói với con gái:

-Thôi lo sắp xếp mà về quê con ạ, dù đói no cũng còn có cha mẹ, anh em; con cái còn có người trông nom cho mà chữa bệnh. Chứ ở đây tiền đâu mà trả cho nhà trọ, gửi con vào nhà trẻ…Nằm một chỗ lấy gì mà ăn chứ đừng nói chữa bệnh. Nghe mẹ già vừa nói vừa chảy nước mắt. Nụ chỉ biết ôm chặt lấy mẹ mà khóc thổn thức. Bà mẹ cúi xuống, lấy khăn lau nước mắt cho con mà những giọt nước mắt của bà cũng lã chã chảy xuống mặt con gái.

NƯỚC MẮT CHẢY XUÔI

Rồi chiến tranh tôi với anh cùng đơn vị. Anh là trung đội trưởng, tôi tiểu đội trưởng. Hai anh em lại là người cùng huyện khác xã. Anh lớn hơn tôi mười mấy tuổi, học hành lam nham chưa hết cấp một. Chữ nghĩa cứ chìm dần trong việc lo toan cơm áo; và sau này đi bộ đội, suốt ngày lo bom đạn. Lên tới chức trung đội trưởng; vì anh là đảng viên có thành tích và thâm niên trong quân ngũ cả chục năm. Vì vậy những văn bản đánh bằng máy chữ chỗ có dấu, chỗ thì không; đôi khi anh cứ cắm đầu vào đánh vần từng chữ mà chẳng ra. Những dịp tổng kết sáu tháng hoặc cuối năm phải viết báo cáo, anh ngồi mò cả buổi chẳng viết xong. Nhìn anh thấy tội tội làm sao. Thế là tôi giúp anh viết cho gọn gàng, có văn phong một tý. Nên từ đó anh rất mến tôi về tính thật thà hay giúp đỡ người khác; và coi tôi như một đứa em. Chả như mấy cái anh cán bộ tiểu đội khác; bề ngoài ra vẻ tôn trọng, thực tế bên trong thì khinh khi cán bộ cấp trên không có trình độ văn hóa. Đôi lúc họp hành anh nói năng không gãy gọn; bị mấy tay lính cười ồ lên. Có lần anh gặp riêng vỗ vai tôi:

-Mình nhiệt tình giới thiệu cho cậu vào đảng; ngặt một nỗi lý lịch địa phương ghi là không rõ ràng. Chả có cách nào mà giúp cậu được. Tôi chỉ biết cảm ơn anh đã nhiệt tình giúp đỡ. Nắm tay anh tôi thủ thỉ:

-Cầu mong Trời Phật hết chiến tranh, anh em mình còn sống là phúc đức lắm rồi anh ạ!

Đúng như sự cầu mong. Hết chiến tranh hai anh em còn nguyên vẹn hình hài chẳng hề trầy xước chỗ nào trên thân thể. Ai nấy hí hửng lĩnh mấy trăm đồng bạc; cùng một nắm tem phiếu gạo tổng cộng là 90 kg. Ở quê anh đã có vợ và hai đứa con. Những khi hợp tác xã không có việc, nhàn rỗi anh lại cùng vợ chạy chợ. Thôi thì thượng vàng hạ cám, đụng cái gì mua bán cái nấy; miễn sao mỗi ngày có lãi được nửa cân gạo trở lên là quý rồi.

Vì còn độc thân, về sống chung với bố mẹ; nên tôi không đến nỗi phải nặng gánh lo như anh. Ngày vác cày đi cày, tối đi gác trong tổ bảo vệ của hợp tác xã. Tổng kết ngày công lao động được hai lạng thóc. Tạm ứng một vụ sáu tháng, mỗi nhân khẩu được 60 kg thóc. Vị chi mỗi tháng được mười cân thóc; quy ra gạo được gần bảy ký lô gam. Mỗi ngày hơn hai lạng gạo; có lẽ đâm nhỏ ra quậy thành hồ họa mới húp no bụng được. Chán chường, tôi nói với bố:

-Ở trong miền Nam ruộng đất mênh mông. Khi tới vụ gặt, chỉ cần vác cái bao đi mót lúa, cả ngày cũng được một vài chục cân thóc. Chứ ai như cái cảnh đất chật người đông, lại kiểu hợp tác xã; cha chung không ai khóc thế này thì lấy đâu ra năng suất cây trồng cao được.

Bố ngước đôi mắt nhìn tôi hỏi:

-Ý anh là muốn bỏ quê vào miền Nam chứ gì? Tôi nhấm nhẳng trả lời:

-Sau gần chục năm trong chiến tranh còn sống, tưởng về quê làm ăn theo kiểu hợp tác xã cuộc sống ấm no thế nào. Nếu biết đói khổ như thế này con chả thèm về, ở luôn trong miền Nam còn có miếng cơm mà ăn no.

Bố tôi nhếch miệng cười buồn:

-Thì bây giờ anh đi cũng đã muộn màng gì đâu.

Thế là tôi khoác ba lô vào miền nam tìm cuộc sống mới. Trước khi đi, tôi lên nhà từ biệt anh. Vỗ vai tôi anh buồn buồn:

-Anh đã có vợ con, phần còn mẹ già đành chịu; như chú đơn thân đi là phải thôi. Tìm chỗ nào có miếng ăn no bụng mà định cư. Đất lành chim đậu, chứ ở đó bám lấy mảnh đất chật người đông để mà ôm cái bụng rỗng tuếch đói meo à.

Vì cuộc sống tôi đã định cư ở vùng đồng bằng Nam Bộ. Đến thời kỳ kinh tế thị trường mở cửa, người dân có cơ hội làm ăn theo khả năng của mình. Nước nổi thì bèo nổi, cuộc sống của người dân đã có miếng ăn miếng để. Thời kỳ này tôi có điều kiện về thăm quê hương thường xuyên. Còn nhớ lần đầu gặp anh sau cả chục năm xa cách; anh cứ ôm lấy tôi mà cười muốn rơi cả nước mắt vì mừng. Đầu tóc anh đã trắng nhòa, tôi tóc cũng điểm bạc. Qua những lần về quê nghe anh kể, tôi cũng hình dung cuộc sống của anh sau mấy chục năm xa cách…

Cái thời bao cấp, làm công ăn điểm hợp tác chả được bao nhiêu cân thóc mỗi vụ. Đói Thì “Đầu gối phải bò” như câu các cụ đã nói. Thôi thì anh phải chạy chợ đủ kiểu, hết vào vườn mua chuối xanh về nhà dấm cho chín; lại gò lưng đẩy hai sọt xe chuối chín bằng xe đạp, từ nhà lên thành phố Hà Nội cách mấy chục cây số. Đứng ở các vỉa hè bán dạo. Mắt trước mắt sau nhìn thấy bóng cảnh sát là gò lưng đẩy xe chạy chối chết, chui vào các ngõ ngách mà trốn. Chị nhà thì cũng vun vén chả kém. Có mấy trăm mét vuông đất phần trăm, hết trồng cây rau này, quả kia theo thời vụ. Chiều chiều cắt, bó… đợi sáng lại gồng gánh ra chợ chồm hổm đầu làng, ngồi bán kiếm dăm ba hào. Hôm nào đắt khách cũng được cả đồng bạc. Có hôm bán ế, đem về người ăn chả hết lại phải nấu cho lợn ăn. Chị có cằn nhằn thì anh chặc lưỡi:

-Đất nhà, công cán mình bỏ ra; có lỗ lã như tôi mua đi bán lại đâu mà cằn nhằn cho mỏi mồm. Chắt chiu nhịn đói nhịn khát, anh chị cũng để dành được một ít tiền. Bàn đi tính lại thôi thì mua mấy chỉ vàng để làm của cho chắc ăn. Chứ gửi ngân hàng như cái đận mấy năm trước; đồng tiền mất giá một năm gần cả chục lần kể như mất trắng.

Nhờ chính sách cởi mở của nhà nước, giao ruộng về tay người nông dân. Hết cảnh cha chung không ai khóc, cuộc sống cứ dần được cải thiện, miếng cơm đã no bụng, manh áo đã lành lặn và đẹp đẽ hơn. Làng xóm cũng thay da đổi thịt, đường xá được bê tông hóa. Vì thiếu kinh phí xây dựng, hợp tác xã đã bán cái ao cá để lâu ngày bị bồi lấp bên hông nhà anh. Thế là anh bàn với với vợ mua cái ao, sau khi bán đi mấy chỉ vàng tích cóp bao nhiêu năm.

Nhớ lần về quê tới nhà thăm anh; hai anh em ra ngồi dưới bóng cây xà cừ đã được kê chiếc bàn, sát bờ ao cạn mà anh mua mấy năm nay. Nhâm nhi mấy cốc bia hơi, anh cười khoe:

-Vợ chồng anh có bốn đứa con, hai trai hai gái. Con gái gả chồng là con người ta, còn hai trai anh tính chia đôi cái ao này; mỗi đứa cũng được cả chục mét chiều ngang bám mặt đường, chiều dài gần ba chục mét cơ đấy.

Anh đưa cốc bia lên uống một hơi hết nửa cốc, nhìn tôi anh thủng thẳng:

-Cách nay mấy tháng, có tay ở trên thị trấn cứ vào gạ bán lại cái ao; với giá gần chục cây vàng mà vợ chồng anh không chịu bán.

Nhìn ra cái ao đã được bồi đất lên cao bằng con đường trong thôn, nét mặt anh trầm ngâm:

-Tích tiểu thành đại chú ạ. Cứ mỗi lần tích cóp được ít tiền, là anh thuê người đổ đất lấp, nay nó mới được như vậy đấy.

Anh nhìn tôi cười giọng nhỏ nhẹ:

-Lọt sàng thì xuống nia chứ đi đâu. Vợ chồng anh tính bây giờ già yếu rồi; ruộng vườn chia đều cho hai đứa con trai. Thằng út nhờ có con vợ đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, có tiền nó đã xây được căn nhà lầu, bên cạnh cái nhà ngói cũ năm xưa hai vợ chồng già vẫn ở. Ăn thì chia ra, tới bữa anh sang ăn bên nhà thằng cả, bà nhà anh ăn bên thằng út; vì hai nhà cách nhau có mấy chục bước chân ấy mà.

Nhớ mấy lần trước về quê lên nhà thăm, tôi đều ở lại ăn bữa cơm cùng vợ chồng anh. Có đôi lần còn ngủ lại. Đêm anh em lại nằm chung giường như hồi ở Khe Sanh, Quảng Trị. Đêm mùa đông lạnh thường dồn chăn, ngủ chung mới chống nổi cái rét thấu xương nơi độ cao hơn mặt biển cả nghìn mét. Hôm nay nghe anh kể, tôi thấy cay cay khóe mắt. Đúng là từ bao đời nay nước mắt chỉ chảy xuôi. Thôi đã lỡ lên nhà thăm anh, phần ngại vì phải sang nhà đứa con cả ăn cơm, nên tôi rủ anh ra đầu làng mỗi người uống chai bia và ăn bát phở. Lúc chia tay tôi cứ nắm chặt tay anh, linh tính như gặp nhau lần này là lần cuối.

Vào Sài Gòn cứ vài ngày tôi lại điện thoại hỏi thăm anh; vì hôm ra gặp nhau tôi đã mua tặng anh một cái điện thoại “cùi bắp” để thuận tiện anh em liên lạc với nhau.

Hôm nay gọi điện, không phải anh bắt máy, mà giọng người con cả trai thông báo:

-Chú ơi, bố cháu bị tai biến đang nằm bệnh viện. Tôi chỉ biết an ủi và động viên gia đình anh.

Cả tháng sau anh mới hồi phục. Tiếng nói đã bớt méo mó ngọng ngịu. Anh báo tin là đang hồi phục, và có thể chống gậy đi lại được rồi. Tôi cũng mừng cho anh, có lẽ anh chỉ bị nhẹ, nên không đến nỗi nằm liệt giường như người ta bị nặng. Mấy lần tôi động viên và khuyên anh nên mua một cái máy đo huyết áp điện tử trên cánh tay. Có gì còn đo mà biết để uống thuốc cho kịp thời. Anh chỉ ậm ừ bảo để bàn với hai đứa con trai. Sau mấy ngày hỏi lại, anh thở dài chặc lưỡi:

-Nói chúng nó mua cho cái máy đo huyết áp như chú nói. Chúng ngồi nghe chẳng nói chẳng rằng. Thôi kệ chú ạ, sống chết đã có số cả.

Nghe anh nói tôi thấy tội và càng thương cho anh hơn. Phải chi anh đừng chia cái ao cạn, cùng ruộng vườn cho hai đứa con. Khi có hữu sự bán quách đi mà lo thân già. Đằng này tin tưởng và thương con, đem giao phó hết cho chúng nó. Bây giờ bảo mua cái máy đo huyết áp, có hơn triệu bạc mà đứa này ganh tỵ đứa kia. Phải anh như người ta, chạy được cái phụ cấp chất độc da cam cũng đỡ. Trong thời kỳ chiến tranh bao kẻ chẳng hề vào miền Nam, thậm chí còn là lính đào ngũ, mà họ còn chạy được chất độc da cam. Đằng này khi anh vác giấy tờ đi làm, bị hành đòi giấy này giấy kia, y như rằng anh tự ái bảo đếch thèm. Còn được sống đến ngày nay, là hồng phúc hơn bao nhiêu đồng đội, vùi thây nơi chiến trường nay còn chả tìm thấy xác.

Cuộc sống nó cứ cuốn hút con người ta phải lao vào công việc. Đâu như nửa tháng tôi mới điện thoại cho anh. Nghe tiếng người con trai cả trả lời, tôi hỏi :

-Bố dạo này khỏe không cháu?

-Dạ…! Chúng cháu vừa đưa ông cháu ra đồng ngày hôm qua.

Tưởng tai mình nghe nhầm, tôi hỏi lại:

-Cháu nói sao, bố mất rồi à?

-Dạ! Sáng nay bố cháu ngủ dậy vừa bước chân xuống giường thì bị ngã, và đi luôn rồi chú.

Tôi sững sờ cả người, thất thần rơi chiếc điện thoại xuống nền nhà, văng cả vỏ ra mỗi nơi một mảnh.

LÒNG THAM & CÁI CHẾT

Cả đơn vị nhảy cẫng lên reo hò; khi nghe tổng thống Dương Văn Minh phe Quốc Gia tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh Sài Gòn. Hoàng cứ lẩm bẩm một mình: “Thế là mình còn sống thật rồi!” Đơn vị gồng gánh vào tiếp quản căn cứ của một tiểu đoàn địa phương quân phe Quốc Gia. Những ngày bận rộn sau giải phóng rồi cũng qua đi. Lần lượt các cựu binh được nghỉ phép về thăm nhà; sau bao năm biệt tăm nơi chiến trường sát nách Sài Gòn.

Vừa quăng ba lô lên giường, Hoàng chưa kịp nghỉ ngơi; chú liên lạc tiểu đoàn đã chạy xuống thông báo, phải lên tiểu đoàn bộ ngay. Hoàng tất tả lên tới nơi gặp ngay anh Bảy tiểu đoàn trưởng đang ngồi chờ. Sau cái bắt tay và những lời hỏi thăm về gia đình Hoàng. Anh đi thẳng vào vấn đề:

-Hết chiến tranh thì nước nào cũng phải giảm quân số trong quân đội; để bớt gánh nặng về kinh tế cho đất nước.

Nhấp thêm một hớp trà nữa, anh nhìn Hoàng vui vẻ:

-Anh có ông anh tập kết ra miền Bắc đi học ở Liên Xô; đã làm cán bộ bao năm ở ngoài đó, được điều vào đây làm trưởng ty. Ông anh cũng gợi ý anh nên chuyển ngành. Từ trong sống chết, chú đã theo sát và nhất là cái lần anh bị thương trong trận Mỹ càn năm sáu chín; nếu không có chú mày nhiệt tình thì…

Thế là Hoàng theo thủ trưởng chuyển về tiếp nhận một cơ sở của chế độ Quốc Gia. Anh Bảy xét theo cấp bậc trong quân đội, nhảy một phát vào ghế giám đốc công ty. Hoàng được bổ nhiệm làm trợ lý giám đốc. Dưới tay anh được cấp trên điều vào toàn những anh, chị đã học đại học hoặc trung cấp trường lớp chính quy ngoài Hà Nội. Nhưng mọi văn bản, đọc hay viết lách anh đều đưa Hoàng làm cho tuốt tuột. Vì trình độ văn hóa của anh, như anh bộc bạch: “Rút rơm trâu ăn no ấy mà”; chưa hề học hết bậc tiểu học.

Trong những năm đầu, mang tiếng là công ty xuất nhập khẩu của một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Mặt hàng chủ yếu chỉ có các loại tôm mà dân chài đánh bắt được; hoặc họ thu hoạch trong những ao đìa nuôi quảng canh. Chỉ thu mua trong tỉnh nhà chẳng được bao nhiêu. Ban giám đốc họp bàn, đưa ra quyết định phải lập các trạm thu mua lẻ ở các tỉnh bạn có bờ biển; mới cung cấp đủ số lượng tôm, cá… xuất khẩu của công ty.
Nghe phong phanh tin này, nhiều anh chị mò tới nhà Hoàng thăm viếng và quà cáp. Nói gần nói xa họ cũng đi vào vấn đề:

-Nhờ anh nói giúp ông giám đốc cho thằng em của em xuống dưới trạm thu mua. Chứ cỡ chúng em thì chả dám…

Hoàng cũng chỉ biết ừ hử, hẹn sẽ hỏi ý kiến giám đốc xem sao.

Hôm sau gặp anh Bảy, Hoàng đưa những vấn đề họ tới nhà năn nỉ nhờ xin cho người đi thu mua. Anh Bảy cười khẩy:

-Chú mày biết chuyện này nó cũng tế nhị và rắc rối lắm. Tự tung tự tác một nơi, giá cả và các loại sản phẩm tôm có đúng chất lượng hay không, nó là cả vấn đề chết sống của công ty.

Đưa tay nắm chén trà xoay xoay trên mặt bàn, anh nhìn thẳng vào mắt Hoàng:

-Anh biết tánh chú và chú cũng quá hiểu tánh anh. Chúng mình đều xuất thân từ con nhà nông dân nghèo khó. Chú may mắn được sinh ra ở miền Bắc còn được học hành. Bao nhiêu năm lăn lộn trong chiến tranh may mắn còn sống, bây giờ vẫn ở nhà tập thể. Những người mới xin vào làm cho nhà nước, họ thấy chỗ ngon dễ xà xẻo mới chạy chọt xin vào. Anh giao chú mấy chuyện này, chả lẽ cho họ ăn không à? Nhưng nhớ chuyện này phải khéo léo và kín đáo đấy nhá. Còn mấy anh trong ban giám đốc để anh lo.
Hoàng gặp riêng từng người muốn xin cho bản thân; hoặc thân nhân của họ. Gợi ý nói xa nói gần, những ai đưa tiền nhiều hơn Hoàng mới nhận. Sau mấy tháng sắp xếp nhân sự vụ làm đại lý, Hoàng cũng đã thu gom được mớ tiền chạy chọt của họ.

Hôm Hoàng đem giao tiền và vàng cho anh Bảy; anh nhìn Hoàng cười vui vẻ:

-Anh chọn người không lầm mà; nhưng mà này… Vỗ vai Hoàng anh Bảy nghiêm nét mặt:

-Vấn đề này phải khôn khéo và giữ thật kín; hở ra là chết cả đám đấy.

Xắn trong mớ tiền Hoàng vừa đưa; anh Bảy dúi vào tay Hoàng vui vẻ:

-Đây là phần của chú.

Mỉm cười anh nháy mắt với Hoàng:

-Chúng mình đã từng vào sinh ra tử. Bây giờ mới có điều kiện, cũng phải tìm mua một miếng đất để xây nhà cửa cho vợ con nó ở; chả lẽ ở trong mấy phòng tập thể mãi sao. Nhưng mà khéo khéo một chút, làm bộ mượn anh này, chị kia một ít cho ra vẻ; kẻo làm trắng trợn quá họ để ý thì mệt đấy.

Mọi chuyện đâu cũng vào đấy theo sự tính toán của anh Bảy. Ngặt một nỗi dạo này nghe ai dè bỉu gièm pha vợ anh: “Nào là nhìn như hai lúa, ăn mặc thì luộm thuộm, nói năng cụt ngủn…”.Vì vậy tính tình anh hay nổi quạu khi ai nhắc đến vợ. Chỉ tội cho chị Bảy, chất phác đúng tính chất Nam Bộ. Đi đâu lúc nào cũng chỉ áo bà ba với chiếc quần đen. Mấy anh em lớn tuổi cùng cơ quan cứ khen, anh Bảy khéo kiếm được người vợ thật thà chất phác. Vậy mà mấy đứa còn trẻ trong công ty thêm mắm dặm ớt chê bai đủ kiểu, nào là: “Ông giám đốc vớ ở đâu ra cái bà già quê mùa lẩm cẩm, đụng đâu nói đó; chả đúng tầm một bà phu nhân giám đốc”. Có người bạo miệng còn thẳng thừng: “Phải tay tớ cứ là bỏ quách cho rảnh nợ, kiếm cô trẻ đẹp có trình độ cao cho xứng tầm”. Những lời đó bay qua bay lại cũng tới tai anh Bảy, có lần anh buồn rầu nói với Hoàng:
-Có lẽ anh phải ra tòa ly hôn, chịu hết nổi dư luận về cái bà vợ hai lúa này rồi.

Chả có ma quỷ nào dẫn đường đưa lối, chính những lời xầm xì chê bai mà anh Bảy đã ra tòa ly hôn. Trong khi mấy đứa con còn nhỏ vẫn theo mẹ ở dưới quê, anh chỉ có nhiệm vụ chu cấp tiền bạc.

Bỏ vợ chưa được một tháng, anh đã cưới ngay cô phó trưởng phòng tiếp tân, thua anh gần hai chục tuổi. Đám cưới thật linh đình, những lời chúc tụng tân lang cứ nổ như pháo hoa. Sau đám cưới, đi đâu họ cũng cặp kè bên nhau, các người làm việc trong công ty ai nấy cứ khen nịnh ngọt xớt là đẹp đôi. Từ khi cưới cô vợ trẻ, tính tình anh Bảy thay đổi hẳn; lúc nào cũng vui vẻ, chẳng còn hay cau có như trước kia. Và từ độ cưới cô vợ trẻ, anh cũng ít nhậu nhẹt, hình như có sự tác động từ cô vợ. Mọi người khen là đẹp đôi, chứ thực tình nhìn hai người đi bên nhau cứ như hai cha con. Dạo này nhìn mặt mày anh Bảy hốc hác tợn. Kẻ nhiều chuyện thì chặc lưỡi: “Trâu già cỏ non làm sao chả hóp má vào!”

Thỉnh thoảng trong các cuộc họp, anh lên án gay gắt ai là y rằng ít ngày người đó bị giáng chức hoặc thuyên chuyển công tác. Mọi người nhìn vào, họ đều lắc đầu ngán ngẩm. Chỉ riêng có Hoàng mới hiểu rõ thực chất vấn đề.

Có lần hai anh em ngồi nhâm nhi chai rượu Tây, anh Bảy vỗ vai Hoàng nói nhỏ:

-Chú mày có coi tuồng: Nghêu Sò Ốc Hến chưa? Hoàng nhanh nhảu:

-Dạ em coi hoài à, vì coi là phải cười cho xả stress anh ạ.

Ngửa mặt nhìn bâng quơ lên trần nhà anh nhếch mép cười:

-Chú có thấy đoạn quan huyện phán cho thày đề: “Phải bày vẽ cho chúng nó kiện nhau…” Đấy vấn đề ở chỗ đó, ngay như cơ quan mình đây không kiếm chuyện moi móc, cứ để chúng nó ngồi mãi một chỗ thành cáo già à. Chúng nó cũng xà xẻo ghê lắm đấy chứ chả tử tế gì đâu. Phải tề bớt những đứa ương bướng không cùng phe cánh ra, đưa những đứa dễ biểu vào thay thế ghế đó. Mình vừa được chúng nó lại quả, vừa dễ sai khiến và chúng còn phải mang ơn mình nữa chứ.

Nhìn anh Bảy, Hoàng chắp tay đưa lên ngực, cúi xuống làm bộ như người ta xá:

-Em phục anh sát đất, sao bây giờ anh nhìn đời thâm thúy thế!

Anh Bảy nhếch mép cười khẩy:

-Đời nó dạy cho cả đấy! Chú mày coi mấy thằng lãnh đạo bên mấy công ty kia, nó còn ăn bạo hơn mình nhiều ấy chứ.

Cưới vợ cũng cả mấy năm trời, chả thấy cô vợ trẻ giám đốc bầu bì gì cả. Có bà bạo mồm hỏi, cô ta chỉ cười:

-Thư thả mà hưởng lộc trời cho mấy năm xuân sắc; có con sớm chỉ tự cột mình mà thôi.

Người hiểu ra thì thầm thì: “Nó dại gì có con với ông lão ngót nghét năm mươi tuổi. Chỉ lợi dụng theo đóm ăn tàn mà thôi”.

Dạo này đi đâu ngay cả đi chợ thậm chí đi chùa, về thăm quê… Cô vợ trẻ giám đốc cũng bắt tay tài xế chở đi. Nhìn hai người đi với nhau, nhiều người không biết cứ khen đẹp đôi. Khi nói chuyện cô ta cứ liếc xéo, giọng thì ỡm ờ, chả có ra dáng một bà giám đốc tí nào cả. Đầy tai những tiếng xì xầm đồn đoán về chuyện tình cảm giữa cậu ta và cô vợ trẻ giám đốc. Anh Bảy không thể bỏ ngoài tai dù dạo này công việc dồn dập – Tôm đang vào vụ. Anh đã từng cầm quân cả đại đội đụng trận bao nhiêu lần với những đơn vị sừng sỏ của phe Quốc Gia và đồng minh Mỹ. Đã có lần anh bày binh bố trận nghi binh để dụ quân địch vào bẫy. Chính trận đó anh đã bẻ gẫy trận càn của cả tiểu đoàn Mỹ. Chuyện này đối với anh quá nhỏ bé; để giải tỏa khúc mắc tâm lý vì dư luận đồn đoán bấy lâu nay. Sáng nay sau khi xe chở anh tới công ty; xuống xe anh vỗ vai tay tài xế cười nhỏ nhẹ:

-Hôm nay công ty họp có nhiều vấn đề lắm, cậu đánh xe về nhà bảo chị đi mua mấy món hải sản làm bữa trưa, thay đổi món chứ dạo này cứ tiệc tùng liên miên ngán thịt thà lắm rồi.

Tay tài xế dạ dạ rối rít quay xe rồ máy chạy liền. Anh đứng nhìn theo đầu gật gù:
-Sĩ quan Mỹ, Quốc Gia học hành bài bản còn bị… huống hồ là mi!
Canh chừng tay lái xe chạy về nhà hơn nửa tiếng đồng hồ. Anh bảo một bảo vệ công ty lấy xe máy chở anh về nhà gấp vì bỏ quên tài liệu. Xe máy vừa về đến cổng, qua lỗ khóa cổng anh Bảy nhìn thấy chiếc xe hơi còn nằm trong sân. Bảo tay bảo vệ tắt máy xe, rút chìa khóa ra anh thò tay qua lỗ cửa sắt mở khóa mà nó run bần bật, loay hoay mãi mới mở được cánh cửa cổng. Khi tay bảo vệ đẩy xe vào trong sân, anh Bảy vừa khóa cổng vừa ra dấu cho tay bảo vệ không được nói năng gì cả. Anh kéo tay bảo vệ đi một mạch vào trong nhà.

Vào tới cửa buồng ngủ, từ phía trong vọng ra những tiếng rên rỉ. Anh rút khẩu súng K-54 ra cầm tay, giơ chân đạp mạnh vào cánh cửa buồng. Trước mắt anh hiện ra hai thân hình trần truồng: Thằng tài xế còn đang nằm trên bụng vợ anh. Thấy anh lăm lăm khẩu súng trong tay, hắn xanh mặt ngồi bật dậy trần truồng. Hai đùi cố khép lại quỳ hai đầu gối xuống giường hắn lạy như tế sao, miệng lắp bắp không nói thành lời. Anh Bảy dí mũi súng vào mang tai hắn:

-Mày là thằng khốn nạn! Đúng là tao nuôi ong tay áo mà.

Con vợ lăng loàn mặt mày xanh lét, hoảng hồn ngồi bật dậy kéo cái gối che thân thể đang lõa lồ. Hở hai cặp vú trắng nõn nà, còn hằn những dấu ngón tay đỏ ửng, và cả những dấu răng trên hai quầng vú.

Nhìn thấy hình ảnh đó, cơn ghen càng trỗi dậy, anh Bảy giơ tay tát mạnh vào mặt con vợ, quát:

-Đồ đĩ thõa!

Hai đứa chân tay run lẩy bẩy chỉ biết cúi mặt không dám thốt một lời. Anh Bảy vẩy vẩy khẩu súng vào mặt hai đứa quát to:

-Cút! Từ nay tao không muốn thấy mặt tụi bay nữa!

Chỉ chờ có thế, hai đứa vơ vội quần áo trần truồng chạy ra khỏi phòng ngủ. Anh Bảy buông khẩu súng rơi xuống đất, ngồi phịch vào chiếc ghế tựa thở hổn hển.

Mấy ngày hôm nay anh Bảy cứ như người mất hồn; mặt mày phờ phạc, dưới hai hõm mắt thâm đen. Cô vợ trẻ từ hôm bị bắt tại trận ngoại tình; đã bỏ đi biệt tăm với thằng tài xế. Tin đau lòng nhất khi nhận được bức điện báo từ nước ngoài, thông báo cả chục tấn tôm đông lạnh đã bị trả về. Anh Bảy bủn rủn cả chân tay, thế này thì tan nát hết cả rồi. Bởi quá tin vào những người dưới quyền mà nay hậu quả anh phải chịu vì anh là giám đốc. Trong khi hy vọng chuyến hàng này suôn sẻ công ty sẽ trang trải được nợ nần. Vì đã mấy năm nay do làm ăn thua lỗ, anh đã ra lệnh cho kế toán báo cáo khống là có lãi. Sau khi điều tra kỹ anh mới ớ người ra, thì ra các trạm thu mua đã kê kích giá tôm loại hai thành loại một, loại ba thành loại hai… Thậm chí tôm chết vài ngày cũng vẫn ghi là tôm sống. Thế này thì bảo sao xuất khẩu qua nước ngoài họ không trả về; vì họ kiểm nghiệm rất kỹ càng chứ đâu phải ẩu tả như cái xứ này, chỉ cần đút tiền là mọi chuyện cho qua tất cả. Chết ai thây kệ, miễn sao túi họ đầy tiền là được rồi.

Sáng nay anh bảy tới cơ quan làm việc hơi muộn; với khuôn mặt phờ phạc hai mắt thâm quầng có lẽ do mất ngủ nhiều đêm. Mọi khi anh thường đảo qua một vài phòng hỏi thăm và động viên anh chị em. Hôm nay anh đi thẳng vô phòng giám đốc, đóng cửa lại. Khoảng ba mươi phút sau nghe tiếng súng nổ ở phòng giám đốc; mọi người nháo nhào gọi hỏi nhau và họ đều chạy đổ xô về phòng giám đốc. Sau khi cánh cửa phòng được mở, hiện ra trước mắt mọi người: Anh Bảy nằm gục đầu trên bàn làm việc, máu từ mang tai chảy ra đỏ cả góc bàn, tay phải buông thõng trên bàn, khẩu súng ngắn còn nằm hờ dưới những ngón tay. Một vài thanh niên khỏe mạnh lại sốc người anh tính đem ra xe chở đi bệnh viện. Nhưng thân thể anh đã mềm nhũn, đầu ngẹo qua một bên. Hoàng chạy lại đưa ngón tay vào động mạch trên cổ anh Bảy, không thấy nhịp đập, hoảng hồn ghé tai vào ngực trái cũng chẳng nghe thấy gì, đành đặt anh ngồi lại tư thế cũ. Buồn rầu Hoàng thông báo cho mọi người: “Đã chết rồi”! Trên bàn còn một tờ giấy viết ít dòng chữ nguệch ngoạc. Mọi người tính cầm lên coi, nhưng Hoàng đã cầm lấy tờ giấy, bảo tất cả im lặng để đọc cho mọi người cùng nghe: “Tôi tự thấy tội lỗi của mình đã gây thiệt hại số tiền quá lớn của nhân dân; vì trình độ lãnh đạo yếu kém, lại quá tin vào cấp dưới. Cộng thêm phần chuyện riêng tư quá đau buồn. Nghĩ rằng còn sống sẽ bị tù tội vì tội lỗi tôi đã gây ra, không muốn lương tâm bị cắn xé vì phải sống suốt đời trong sự tủi hổ. Tôi nghĩ rằng chỉ có cái chết mới chuộc được tội lỗi do mình gây ra. Chỉ xin mọi người hãy mở rộng lòng từ bi tha thứ mọi tội lỗi của tôi.” Tiếng đọc của Hoàng vừa dứt, có những tiếng khóc sụt sịt, khóc to nhất là mụ kế toán trưởng công ty. Tay trưởng phòng tổ chức vừa làm bộ quệt nước mắt, vừa ghé tai mụ thì thầm: “Thôi bà đừng làm bộ thương tiếc khóc to, người mừng nhất công ty là bà, về làm tiệc ăn mừng đi.” Mụ kế toán trưởng cũng chẳng vừa đảo mắt nguýt tay trưởng phòng: “Nhiều người mừng chứ đâu phải một mình tôi”.

NGƯỜI TÂN BINH ĐẶC BIỆT

Qua chiến dịch mùa khô, đơn vị rút quân về căn cứ chỉnh huấn. Tiểu đội tôi 9 người,
phần hy sinh, và bị thương… quân số còn lại 5 người kể cả tôi là tiểu đội trưởng. Sáng vừa cơm nước xong, chú liên lạc tới thông báo tiểu đội lên ban chỉ huy đại đội nhận tân binh. Tất tả theo chú liên lạc vừa đi tôi vừa khấp khởi mừng vì tiểu đội có thêm người. Lên tới ban chỉ huy đại đội đã thấy đâu hơn chục tân binh sắp hàng ngồi theo hàng dọc. Không đợi các tiểu đội lên đủ, đại đội phó mỉm cười nhìn tôi:

-Cứ có tiểu đội nào lên tới là tranh thủ giao, đợt này trên bổ sung cho đại đội ta có mười mấy tân binh. Tiểu đội cậu quân số còn ít quá, đại đội bổ sung cho hai người là ưu tiên lắm đấy.

Nhìn vào hàng quân đang ngồi chờ, anh vỗ vai tôi:

-Cứ thứ tự từ trên xuống dưới.

Và anh bảo hai chiến sĩ ngồi đàng trước đứng dậy. Trước khi giao tân binh cho tôi anh đọc lại tên tuổi từng người xem có đúng không. Người tân binh thứ nhất tên Tới, khi đọc tới tên Trần Văn Thơi, nghe tiếng có rõ to. Tôi giật mình vội đưa tay lên dụi mắt, cố căng mắt nhìn người tân binh. Ôi trời đất ơi…! Trời xui đất khiến làm sao tôi lại gặp cái ông thày hồi học cấp hai mà suốt đời tôi chẳng bao giờ quên. Để xác minh lại tôi đến bên cạnh người tân binh tuổi đời ngót nghét ba mươi; đang sắp sửa khoác ba lô lên vai. Nhìn thẳng vào mặt người tân binh; đúng là khuôn mặt lão thày giáo chủ nhiệm lớp tôi năm xưa, nay có già đi đôi chút, tôi gằn giọng hỏi:

-Đồng chí là: Trần Văn Thơi… ở Văn Giang, Hưng Yên, trước khi nhập ngũ là giáo viên…?

Người tân binh đứng nghiêm giơ tay lên chào:

-Báo cáo đúng tôi là Trần Văn Thơi, Văn Giang, Hưng Yên, giáo viên dạy cấp 2…

Tôi gật gật nhẹ đầu: “Thôi rồi đúng lão này là thày giáo chủ nhiệm lớp sáu A năm đó chứ ai”. Cũng vì lão bức bách tiền học phí có bảy đồng rưỡi mà tôi phải bỏ học. Những hình ảnh ngày đó còn in đậm trong tiềm thức kể từ khi tôi phải bỏ học…

Tiết đầu tiên của buổi học là môn hình học mà dạy môn này lại là thày giáo chủ nhiệm lớp sáu A, tuổi đời trên hai chục. Vừa bước vào lớp lão ta tràng giang đại hải nói về trách nhiệm đóng học phí của học sinh. Tôi nghe mà cứ nơm nớp lo sợ vì cả lớp chỉ còn mình tôi là chưa đóng học phí. Lão đi dọc theo lớp học, khi tới chỗ tôi vì tôi ngồi phía ngoài bàn lão bảo tôi đứng lên. Và lão mắng mỏ tôi là học mà không chịu đóng học phí thì nhà trường lấy tiền đâu mà trang trải… Lão trừng mắt nhìn tôi:

-Hẹn cho em đúng ba ngày; nếu không đóng học phí tôi sẽ báo cáo lên ban giám hiệu thì em khỏi được học nữa.

Tôi tái mặt ấp úng:

-Thưa thày…! Nhà em nghèo quá, bố em bệnh… chưa có tiền… Khi nào có em sẽ..

Lão tiến sát lại bên tôi:

-Không có sẽ gì cả, đã hết học kỳ một rồi, không có lý do gì để trây lỳ…

Lão đưa tay chỉ sát vào mặt tôi, tôi bực mình và xấu hổ với bạn bè; liền đưa tay hất tay lão ra, quát lại:

-Nhà tôi nghèo chưa có tiền đóng học phí, ông làm gì mà chỉ tay như đấu tố địa chủ vậy? Tôi đếch thèm học nữa, ông tránh ra!

Tôi lôi sách vở trong hộc bàn, tay ôm mấy cuốn sách mặt hầm hầm đi ra khỏi lớp. Về tới nhà tôi quăng mấy cuốn sách xuống nền nhà ngồi khóc. Bố tôi hôm nay không đi trông ao cá cho hợp tác xã; ông ngồi trên giường cúi gập người, tay đang ôm bụng vì cơn đau dạ dày nhìn tôi chảy nước mắt:

-Mẹ con thì chết sớm, bố trời đày sao lại bị cái bệnh đau dạ dày kinh niên, nhà có ba bố con, em con thì còn nhỏ mà gần như quanh năm ăn cháo, họa hoằn ngày mùa mới có được ít ngày ăn cơm độn khoai. Tại bố tất cả…

Ông lấy lọ thuốc muối chữa đau dạ dày, múc một thìa cà phê cho vào cốc, đổ nước vào khuấy khuấy cho tan rồi ngửa cổ uống. Vài phút sau nghe tiếng ông ngồi ợ hơi liên tục. Tôi ngưng khóc nhặt mấy cuốn sách gom vào góc nhà, quệt nước mắt tôi rắn giỏi nói với bố:

-Bố yên tâm, con nay cũng mười sáu tuổi rồi; (Lứa tuổi chúng tôi hồi đó tám, chín tuổi mới được đi học vì không có trường lớp, nên học tới cấp 2 đã trở thành thanh niên, thiếu nữ gần như hết cả lớp), con sẽ ở nhà cua ốc phụ bố.

Ngày hôm sau tôi nói bố đi vay được hai đồng bạc. Lên chợ tôi mua gần chục cái đó để đơm tôm tép. Cả ngày bố tôi hì hục cắt xén, lắp hom. Tối, tôi vác đó ra cánh đồng chiêm trũng đặt đó đơm tôm tép. Sáng hôm sau bốn giờ tôi đã thức dậy đi giở đó, cũng may mắn ngày hôm đó được gần hai bát cả tôm tép và cá lòng tong. Bố tôi đem ra chợ chồm hổm ở gốc đa đầu làng bán, đong được gần ca gạo. Ông nấu hẳn một nồi cơm gạo trắng, ăn với rau lang luộc trồng trong vườn chấm với nước tép kho. Cả nhà được bữa no nê và ăn ngon.

Cứ vậy đêm tôi xách đó đi đơm, ngày thì cột cái giỏ cua bên hông, tay cầm cái móc cua cứ suốt ngày ngoài đồng. Hôm nào bố tôi cũng thức dậy sớm. Ông đóng những con cua vào hai thanh tre nhỏ hơn chiếc đũa ăn cơm, chiều dài khoảng bốn mươi phân mà ông đã chẻ và vót sẵn. Cứ mười mấy con cua to, hoặc hai mươi con cua nhỏ hơn vào một xóc (xâu). Sáng sớm ông ôm mớ cua cùng tôm tép ra chợ chồm hổm đầu làng ngồi bán. Ngày nào kha khá ông cũng mua được cả ca gạo. Từ đó cả nhà tôi ngày nào cũng được no nê với hai bữa cơm độn với củ dong riềng trồng trong vườn nhà. Chưa đầy tháng trời mà người tôi đã đen nhẻm như cột nhà cháy. Bạn bè gặp mặt chúng cười ái ngại cho hoàn cảnh của tôi. Kệ! Hoàn cảnh mỗi nhà mỗi khác nhau mà. Trong tâm nguyện của tôi sẽ cố gắng làm việc để bố và em tôi không phải ăn cháo độn rau má quanh năm, và nhất là thằng em tôi phải được học; chứ đừng như tôi phải bỏ học vì không có tiền đóng học phí.

Chiến tranh bùng nổ, tôi cũng đã bước sang tuổi 18. Nhiều lần đi sinh hoạt đoàn thanh niên, tôi đã nghe phổ biến về nghĩa vụ và lệnh tổng động viên. Được cán bộ đoàn đọc kỹ sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự của nhà nước; nếu trốn tránh không đi nghĩa vụ quân sự sẽ phải đi học tập cải tạo; và quyền lợi gia đình có con em đi nghĩa vụ nhất là vào chiến trường miền Nam. Lần đầu bị gọi đi khám sức khỏe; dù cân nặng của tôi chưa tới 40 kg, mà kết luận y khoa ghi sức khỏe B1+. Thế mà tôi vẫn bị gọi nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện, đơn vị hành quân hơn 5 tháng theo đường mòn Hồ Chí Minh mới tới điểm tập kết. Tôi bị sốt rét rừng quật ngã, may mắn sau cả tháng nằm bệnh viện tôi thoát lưỡi hái tử thần; được bổ sung vào sư đoàn miền Đông Nam Bộ này. Sau mấy năm tôi đã được cất nhắc lên chức tiểu đội trưởng; kinh qua mấy chiến dịch mùa khô còn sống.

Nhiều chiến sĩ trong tiểu đội, biết Thơi là người đồng hương với tôi mà tình cảm giữa hai người như có một khoảng cách vô hình. Nhưng không ai biết lão là thày giáo chủ nhiệm của tôi cách đây mấy năm. Họ có thắc mắc tôi chỉ nhe răng cười trừ, còn lão Thơi thì cúi đầu im lặng. Thường thường khi vui có mặt tôi và lão; thì hình như lão chiến sĩ mới này kiệm lời. Có lẽ do nghề nghiệp sư phạm quen đứng trên bục giảng, nên ít nhiều đã rèn cho lão một cá tính tỏ ra ta đây là thày? Tôi cũng chả bao giờ nhắc chuyện bị lão hạnh họe làm nhục giữa lớp học mà phải bỏ học; vì không có tiền đóng học phí. Hình như lão cũng biết lỗi của lão nên những khi chạm mặt nhau, lão cứ nhìn đi chỗ khác, hoặc cực chẳng đã khi tôi hỏi cái gì đấy thì lão cũng trả lời cho có lệ rồi lảng đi chỗ khác ngay.

Chiến dịch mùa khô đã đến, sau mấy tháng dưỡng quân và chỉnh huấn; đơn vị rời căn cứ. Luồn lách hành quân hai ngày, tiểu đội tôi cùng đại đội mới tới được con đường nhựa, chạy từ Sài Gòn lên thị xã giáp biên giới Căm Pu Chia. Theo như sự phổ biến trên sa bàn, chỗ chúng tôi phải đào công sự phục kích đánh quân tiếp viện là đoạn đường cong hình cánh cung. Nơi này chỉ toàn những bụi cây núp xúp, chen lẫn là những khoảng trống cỏ tranh và những cây hoa mua. Chỗ đơn vị phục kích cách thị xã ngót chục cây số. Mỗi người phải cố gắng đào trong đêm cho xong một công sự cá nhân, cách mép đường dưới chục mét. Chiều sâu mỗi công sự khoảng hơn một mét, ngụy trang bằng cách giẫy cỏ và chặt cành cây phủ lên những lớp đất ba zan đỏ ối mới đào lên. Nửa đêm chúng tôi đang hì hục đào công sự đã nghe tiếng súng lớn nổ rền vang từ phía thị xã. Tôi chắc mẩm ngày mai sẽ có hàng chục chiếc xe tăng, thiết giáp, xe chở quân… chạy qua đây lên tiếp viện cho thị xã.

Lường trước trận đánh ngày mai sẽ ác liệt, nên tôi bố trí hai tân binh đào hầm gần tôi, để theo dõi và hướng dẫn. Phía tay trái tôi là tân binh trẻ tuổi tên Tới, bên tay phải tôi là lão tân binh thày giáo. Tờ mờ sáng tôi đã đào và ngụy trang xong công sự của mình. Mệt rã rời, tôi lôi bi đông nước ra tu ừng ực. Vội vàng quơ khẩu súng AK khoác lên vai, đi kiểm tra công sự của các chiến sĩ trong tiểu đội. Tới công sự của lão thày giáo đã đào xong, nhưng ngụy trang còn để hở nhiều chỗ đất đỏ mới đào lên. Tôi nhất quyết bắt lão phải xúc những phần đất đỏ vung vãi gom lại một chỗ, sau đó lấy cỏ và cành lá ngụy trang lên cho không còn thấy màu đất đỏ nữa. Lão đứng phì phò thở, tay chống nạnh nhìn, tôi quát:

-Đây là chiến trường, đồng chí không thể cẩu thả được, không phải một sinh mạng của đồng chí mà cả đồng đội nữa. Tôi ra lệnh cho đồng chí 30 phút nữa phải ngụy trang xong.

Lão phủi tay vào vạt áo nhìn tôi vẻ bực tức, nhưng cũng phải cầm xẻng gom đất lại. Làm sao lão biết được khi phục kích là phải tạo bất ngờ. Làm sao lão biết kẻ địch mạnh về không quân, và sự lợi hại của nó như thế nào? Chỉ cần lộ mục tiêu thì chúng sẽ gọi pháo, máy bay tới bừa tan nát trận địa chỉ trong vài giờ; chắc chắn bên ta sẽ chuốc lấy cái chết của đồng đội và sẽ lĩnh sự thất bại thảm hại.

Phía đông mặt trời đã nhú lên đỏ ửng. Tiếng súng to nhỏ từ phía thị xã vẫn ầm ì vọng về. Trên trời phành phạch những tiếng máy bay trực thăng loại chở quân bay về hướng thị xã. Chiếc máy bay trinh sát OV-10 cũng bay tới vè vè trên đầu chúng tôi. Nó bay dọc theo tuyến quốc lộ, nghiêng cánh đảo qua đảo lại chỗ đơn vị nằm phục kích. Bỗng nó nghiêng cánh phóng ra một quả pháo màu chỉ điểm phía bên sườn đồi chúng tôi, cách chỗ tôi vài chục mét. Khói màu đỏ lan tỏa ra đường kính cả chục mét. Tôi hô to nhắc nhở tay tân binh sát hầm tôi và lão thày giáo phải bình tĩnh, vì đây là khói màu chỉ điểm, lát nữa sẽ có máy bay phản lực tới bỏ bom dọn đường cho quân tiếp viện.

Chỉ vài phút sau ba chiếc máy bay phản lực nhào tới, mỗi lần nó nghiêng cánh là thấy hai quả bom lùi lũi lao xuống đất. Tôi hét tất cả ngồi thụp xuống công sự, tránh mảnh bom. Chúng toàn bỏ bom mé phía trên sườn đồi, vì công sự chúng tôi đào cách mặt đường chưa tới chục mét. Chúng đâu dám bỏ bom gần mép đường chắc chắn là sẽ sập đường, làm sao xe tiếp viện của chúng có đường mà chạy. Nên qua đợt bỏ bom, tất cả đều vô sự chỉ có đất đá văng vào người một vài chiến sĩ. Khi không còn nghe tiếng máy bay ném bom; là tiếng í ới gọi nhau xem có ai bị sao không. Mọi người đứng lên nhìn nhau, mặt ai nấy đỏ au như trát một lớp phấn màu đỏ. Cậu lính tân binh bên cạnh tôi nhe hàm răng trắng muốt, trên khuôn mặt lam nham màu khói bom và màu đất đỏ ba zan. Vừa đưa tay vuốt bụi trên mặt, mồm nhổ phì phì nhìn qua tôi cười:

-Mẹ cha nó! Chắc em hít và nuốt nhiều bụi đất đỏ lắm anh ạ.

Tôi cảnh báo và động viên:

-Sẽ còn ác liệt hơn nữa cậu ạ, sắp tới sẽ có xe tăng, xe chở quân tiếp viện nữa đấy. Phải chú ý bám chặt công sự chờ lệnh.

Cậu tân binh làm bộ đứng nghiêm, đưa bàn tay đầy bụi đất lên trên trán hô to:

-Rõ!

Tôi không khỏi phì cười vì tính hồn nhiên của cậu lính trẻ, lần đầu mới sơ sơ nếm mùi bom đạn. Nhìn qua bên lão tân binh thày giáo, mặt mày nhem nhuốc chẳng thua kém gì, có điều do tuổi tác, hoặc đã từng làm thày nên tính tình kín đáo hơn, chỉ lấy vạt áo lau mồ hôi và bụi cùng nhoẻn miệng cười.

Nghe tiếng xe ầm ì từ phía xa, cậu liên lạc đại đội chạy xuống truyền lệnh:

-Lệnh đại đội mọi người phải chờ pháo hiệu mới được nổ súng.

Từ phía xa chiếc xe tăng đi đầu còn cách chỗ chúng tôi cả trăm mét; những khẩu đại liên trên các xe tăng bắn xối xả vào hai bên sườn đồi. Tiếng đạn ngăm vào đất nghe phịch phịch… trúng vào những cành cây gãy kêu răng rắc. Hình như có cả tiếng súng phóng lựu M-79 của tụi lính bộ binh trên xe bắn hòa theo. Tôi cúi đầu xuống khỏi thành công sự, tay phải nắm chặt khẩu B-40, tay trái nắm quả đạn xoay cho cái chốt vào ngàm nghe tiếng: Cạch. Và tôi nhủ thầm: “Tụi bay cứ bắn đi, tý nữa sẽ biết mèo nào cắn mỉu nào”.

Tiếng xe mỗi lúc một gần, súng đại liên trên các xe tăng đường đạn bắn gần nghe chát chúa, đầu đạn găm vào thành công sự cày từng mảng đất tung lên bụi mù màu đỏ. Khi làn đạn chúng bắn qua chỗ khác, tôi ngóc đầu lên nhìn, thấy hai chiếc xe tăng đi đầu nối tiếp là những xe chở quân lính mặc đồ rằn ri đều chỉa súng về hai bên sườn đồi, và cả những xe kéo những khấu pháo. Hai bên sườn đồi cả một đội quân phục kích nằm chờ vẫn im lặng. Dưới đường đoàn xe hỗn hợp vẫn ầm ì nối đuôi nhau chạy tới, xen lẫn trong tiếng nổ của đủ loại đạn. Điều tôi lo nhất lúc này là hai tân binh, chỉ sợ lần đầu ác liệt như thế này mà mất tinh thần vọt lên khỏi công sự bỏ chạy; không những sẽ chết mà còn làm lộ vị trí phục kích thì… Nên thỉnh thoảng trong làn đạn của quân địch bắn về phía chúng tôi rát quá, tôi hét lên:

-Núp xuống công sự không được thò đầu lên!

Những thằng lính rằn ri trên các xe vận tải, chúng chĩa súng về hai bên đường, cứ thấy bụi cây hoặc mô đất nào khả nghi là thi nhau xả hàng tràng đạn súng tiểu liên cực nhanh. Tôi cứ thấp thỏm chờ pháo hiệu.

Trên trời vụt lên vệt pháo hiệu màu đỏ, kèm theo là tiếng nổ lớn của súng B-41; tiếp theo là đủ các loại súng cả hai bên. Tôi chồm người lên thành công sự đưa khẩu B-40 nhắm vào chiếc xe tải chở quân xiết cò. Sau tiếng nổ của quả B-40 chỉ thấy chiếc xe tải lảo đảo xoay ngang. Tiếng người la hét kèm theo những tràng tiểu liên bắn loạn xạ. Tôi cúi người xuống lắp tiếp quả đạn nữa, nhắm vào đám khói mù mịt có phát ra tiếng súng, bóp cò. Bên cạnh tôi tiếng súng AK của hai tân binh và đồng đội cũng nổ giòn giã. Vẫn còn những tiếng súng tiểu liên ở dưới đường bắn lên. Tôi rút lựu đạn, mở nắp giật nụ xòe vung tay ném mạnh xuống dưới đường, miệng hô to:

-Lự…u đạn!

Hòa theo tiếng nổ quả lựu đạn của tôi là liên tiếp những tiếng lựu đạn của đồng đội. Sau một hồi bị vùi dập bởi hỏa lực của quân ta; tiếng đạn thẳng, đạn M-79, đạn pháo xe tăng… của địch bắn về phía chúng tôi thưa dần.

Từ phía chân trời nghe tiếng phành phạch, ngước đầu lên tôi thấy hai chiếc trực thăng chiến đấu, loại này mình dẹp thon thon chứ không như loại trực thăng chở quân hai bên thân phình ra. Một bên sườn những chiếc trực thăng chiến đấu này, có cả một giàn hỏa tiễn mười mấy ống, hai cửa bên sườn là hai thằng lính ôm hai khẩu đại liên. Chúng đảo qua chưa được một vòng là tiếng súng đại liên bắn ra nghe ồ ồ như tiếng bò rống, hòa trộn trong tiếng súng đại liên là những quả hỏa tiễn phóng ra: Cảo đùng… cảo đùng! Đất, đá màu đỏ quyện trong khói đen của đạn hỏa tiễn bay lên mù mịt. Đơn vị trợ chiến phòng không nằm trên mấy ngọn đồi cao, cũng đang nhắm vào mấy chiếc trực thăng nhả đạn. Chưa đầy mười phút một chiếc đã trúng đạn bốc khói đen kịt, lảo đảo lao đầu vào góc núi phía xa; chiếc còn lại hoảng hồn bỏ chạy.

Chiếc trực thăng vừa đi khỏi, ba chiếc phản lực từ cuối chân trời nhào tới bỏ bom. Sau mỗi đợt bom nổ là những trận mưa đất, đá rơi xuống ào ào, tôi chỉ biết mọp đầu xuống công sự, khấn thầm đừng có cục đá to nào rơi trúng người. Trong tiếng gầm rú của máy bay và tiếng bom nổ, bỗng tôi nghe tiếng la: Ối! Từ phía hầm bên tay phải tôi. Tôi nghĩ có lẽ lão tân binh thày giáo bị trúng mảnh bom rồi chăng? Vừa lúc ba chiếc phản lực bỏ hết bom đã bay đi. Vội trườn người lên khỏi công sự, tôi bò về phía hầm lão thày giáo; vừa bò vừa gào to:

-Đồng chí Thơi! Thơi…

Không nghe tiếng trả lời, tôi càng bò nhanh hơn, tới công sự của Thơi; thấy lão ta đang ôm ngực bên phải, máu chảy ra xối xả. Tôi kéo lão lên khỏi công sự, máu từ vết thương bên ngực phải cứ phụt mạnh ra theo mỗi hơi thở của lão. Sợ đạn thẳng của địch bắn trúng hai người, tôi kéo lão lại núp sau một gò mối. Vội vàng rút con dao găm bên hông ra, rạch một mảng áo ngay vết thương cho rộng, tôi chỉ thấy một lỗ găm vào chứ không có lỗ đạn xuyên ra. Tôi đoán có lẽ lão bị mảnh bom; nên không đủ lực xuyên qua bên kia như đạn thẳng bắn gần. Vội vàng tôi bóc cuộn băng cá nhân của lão, lấy dao găm cắt ra một đoạn vo tròn lại áng chừng vừa vết thương, lấy tay ấn mạnh vào trong đó; lão thày giáo oằn mình lên kêu:

-Á!

Lấy đầu gối đè lên người lão, tôi quát:

-Nằm im, để tôi băng cho!

Cuộn băng còn lại chỉ quấn được mấy vòng ngực, tôi tháo cuộn băng cá nhân của tôi ra quấn hết cho chắc ăn. Băng xong thấy lão không còn há mồm ra hít không khí nữa, do vết thương thủng phổi đã được bịt kín lỗ. Tôi vỗ vai lão an ủi:

-Yên tâm đi, vết thương thủng phổi bên phải, tôi sẽ cho người đưa đồng chí về tuyến sau. Nằm điều trị ít ngày là về đơn vị thôi mà.

Lão nhìn tôi ứa nước mắt không nói gì. Tôi gọi người tới đưa lão về tuyến sau.

Qua chiến dịch quân ta đã chiếm được thị xã. Đơn vị tôi chốt chặn đã đánh tan tác nhiều lần quân tiếp viện; hoàn thành suất sắc nhiệm vụ trên giao. Ngày được lệnh rút quân khỏi chốt chặn, chúng tôi những người còn sống sót, hò reo vui mừng ôm nhau chảy nước mắt. Không thể hình dung ra nơi chúng tôi phục kích, cây cối bây giờ gãy xơ xác, đang héo quắt dưới cái nắng gay gắt của mùa khô. Đất đá đã bị bom, pháo cày đi cày lại nằm đỏ au, chen lẫn những mảnh bom, pháo và đá đang nằm phơi dưới ánh nắng ban mai. Tổng kết đợt đánh chặn này, tiểu đội tôi hy sinh hai trong đó có cậu tân binh tên Tới. Bị thương hai người trong đó có lão thày giáo tân binh.

Đang say sưa với giấc ngủ trưa, giật mình thấy cái võng bị lay và tiếng gọi to:

-Báo cáo tiểu đội trưởng…!

Mở mắt ra nhìn tôi chỉ kịp ồ lên; chưa kịp hỏi han gì thì lão thày giáo đã tháo ba lô bỏ xuống đất. Lấy ba lô làm ghế ngồi lão ôm lấy tôi giọng nhỏ nhẹ:

-Không có tiểu đội trưởng hôm đó… chắc tôi… Tôi bật ngồi dậy trên võng, vỗ vai lão cười:

-Trong chiến đấu đã là đồng đội coi nhau như anh em; ở hoàn cảnh như vậy ai cũng phải làm như tôi mà thôi.

Ngước vội mắt lên nhìn tôi, lão nhỏ nhẹ nhát gừng:

-Tôi biết tiểu trưởng hận tôi về chuyện đóng học phí; thú thật tôi áy náy suốt kể từ ngày tiểu đội trưởng phải bỏ học.

Tôi nhếch mép cuời:

-Tất nhiên cả đời tôi không bao giờ quên chuyện đó; tôi giận đồng chí thì ít nhưng tôi hận đời thì nhiều.

Nhắc lại chuyện năm cũ lòng quặn thắt, giọng tôi trầm xuống:

-Tôi chỉ buồn vì mẹ tôi mất sớm, bố tôi lại bị bệnh đau dạ dày kinh niên; nhà tôi gần như quanh năm ăn cháo độn với sắn, khoai lang phơi khô, củ dong riềng, thậm chí phải nấu cháo với cả rau má. Có mấy đồng đóng học phí mà…

Tôi kéo cái điếu cày ra, vê một điếu thuốc lào to, bật lửa kê mồm vào rít một hơi dài. Miệng nhả khói, mắt lừ đừ nhìn bâng quơ lên mấy ngọn cây; nơi có mấy con chim chích chòe đang hót. Vỗ vai lão tôi nói dứt khoát:

-Nhưng mà thôi, mỗi người đều có số phận cả, đồng chí đừng suy nghĩ làm chi nữa cho mệt. Cố gắng hoàn thành nhiệm vụ; cầu mong Trời Phật phù hộ cho chúng ta còn sống tới ngày hòa bình là phúc đức lắm rồi.

Lão ấp úng:

-Nhưng dù sao tôi cũng mong tiểu đội trưởng thứ lỗi cho tôi. Chẳng qua tôi làm vậy cũng là do lệnh cấp trên…

Ngước mắt lên nhìn thẳng vào mắt lão, tôi gằn giọng:

-Chúng ta đi lính đây cũng bởi lệnh tổng động viên. Khi một đất nước có hai chế độ thì bên nào cũng đưa ra chiêu bài mỵ dân: vì lý tưởng này, lý tưởng kia…. Kích động sự hận thù; để rồi bất đồng chính kiến thì gây ra chiến tranh. Trận đánh vừa qua cũng là lệnh của cấp trên. Suy cho cùng chúng ta là những dân đen trong chế độ nào cũng thế, đều chịu sự thiệt thòi và chết chóc vì những lý tưởng mà họ tuyên truyền, và những luật lệ họ ban ra.

Tôi buồn buồn nhìn lão:

-Hết chiến tranh nếu đồng chí còn sống sẽ trở về với nghề dạy học, có công việc ổn định; còn thất học như tụi tôi…

Tôi bỏ lửng câu nói, nhìn mông lung về phía chân trời, chớp chớp hai mi mắt cố kìm những giọt nước mắt muốn ứa ra. Lão nhìn tôi giọng thều thào đứt quãng:

-Tôi biết… tôi biết !

Và lão cúi nhanh xuống, lấy tay áo lính quệt vội những giọt nước mắt bất chợt tuôn ra.

NGƯỜI LÍNH BIỆT KÍCH DA ĐEN

Sau đợt tổng công kích của quân Giải Phóng tết Mậu Thân năm 1968. Vùng giáp ranh
Sài Gòn cả phe Quốc Gia và quân đồng minh Mỹ; thường xuyên tung các toán biệt kích vào những vùng xôi đậu, tìm và diệt quân Giải Phóng. Có sự khác biệt giữa lính biệt kích người Việt và người Mỹ: Lính biệt kích Quốc Gia vì họ rành rẽ địa hình, nên luồn lách vào nằm phục kích những nơi nào họ nghi là có quân Giải Phóng, hoặc du kích địa phương. Hễ tụi này gặp quân chủ lực Giải Phóng đông hơn, thì nằm im gọi pháo hoặc trực thăng tới bắn. Nếu gặp mấy anh, chị du kích đi lẻ tẻ là họ nổ súng, nên ít có khi nào mà không có người chết. Riêng lính biệt kích Mỹ vì không rành địa hình như người Việt nên cứ căn theo bản đồ hành quân mà đi. Thường thường họ hay đi tổ ba người hoặc đôi khi năm, sáu người, có khi đi cả tiểu đội. Hễ đụng quân Giải Phóng là họ nằm lỳ tại chỗ mà bắn; đồng thời gọi trực thăng tới bắn yểm trợ. Nên đánh bọn biệt kích Mỹ không phải dễ dàng, mỗi lần đụng độ là phải nhanh chân cao chạy xa bay, kẻo bị trực thăng nó tới bắn phá; thì giữa cái đồng bằng này địa hình chỉ là những cụm dừa nước hoặc dừa ăn trái, liệu chạy đâu? Người Mỹ từ lính da trắng cho đến da đen thân hình họ cao to; thường một lính Mỹ có thể ôm cả một khẩu đại liên M- 60 nặng 12 kg là chuyện thường. Chả bù cho bên quân Giải Phóng, chỉ có khẩu đại liên của Liên Xô từ thời thế chiến 2 viện trợ, nặng nề có cả bánh xe tính tổng cộng cả khẩu súng cũng gần một tạ. Nên rất lỗi thời với chiến trường sình lầy giáp ranh Sài Gòn thủ đô của phe Quốc Gia. Chỉ có khẩu trung liên RPD và tiểu liên AK là thích nghi với mọi chiến trường và địa hình.

Lệnh của cấp trên: Hễ biệt kích đổ quân xuống vùng nào mà đơn vị đó đang đóng quân; thì đơn vị đó phải tìm mọi cách mà đánh. Đã mấy lần đơn vị tôi tập kích bọn biệt kích Mỹ. Họ rất khôn ngoan có lẽ do thực tế hay các trường quân sự huấn luyện họ. Cứ sâm sẩm tối, trực thăng thả họ xuống, đợi khi tối trời họ mò mẫm đi trong đêm hoặc nằm phục ở một điểm nào đấy, nghi là quân Giải Phóng hoặc du kích hay đi qua, nằm chờ. Trên đường họ lần mò đi tìm trong đêm, điều đặc biệt chả khi nào họ dừng chân một chỗ quá nửa tiếng đồng hồ. Nhất là khi họ đi vào nhà dân, luôn luôn họ ngồi rải rác xung quanh nhà, họ không dám vào nhà vì sợ bị quân Giải Phóng tập kích.

Một lần đơn vị tôi vào pháo kích Sài Gòn, nhân ngày lễ quốc khánh của phe Quốc Gia; để gây tiếng vang. Khi đi thì cũng lần mò luồn lách qua nhiều đồn bốt, phải mất mấy đêm liền mới tới bên này bờ sông Sài Gòn để bắn cối 82 vào nội đô. Khi pháo xong lo vắt giò lên cổ chạy cho nhanh, kẻo không sẽ bị phản pháo; hoặc máy bay trực thăng tới soi như soi cá và bắn đại liên sáu nòng cùng hỏa tiễn. Ém quân cả đêm đó vì không kịp vượt sông Cần Giuộc để trở về bên kia. Đôi khi phải phân tán nhỏ theo du kích xuống hầm bí mật chờ trời tối. Vì chắc chắn ngày mai bên phía Mỹ và phe Quốc Gia; sẽ đổ quân khắp nơi càn quét để tìm diệt đơn vị Giải Phóng pháo kích đêm qua. Khi về cũng phải lần mò mấy đêm mới về tới vùng hơi xa Sài Gòn. Lần này đơn vị về xã Phú Ngải Trị thuộc huyện Tân Trụ, tỉnh Long An; để ém quân và nghỉ ngơi. Cái ấp mà đơn vị đóng quân, dân vẫn còn ở trong ấp rất đông. Họ không có dời nhà ra ngoài cánh đồng như những nơi khác, có lẽ nơi đây gần quận lỵ và nhiều đồn bốt; nên ít xảy ra đụng độ với quân Giải Phóng cũng không bị pháo và bom của Mỹ bắn phá hủy diệt.

Nghỉ ngơi chưa được dăm ngày. Buổi chiều anh em vừa cơm nước xong, nghe dân báo ngoài con lộ từ thị trấn huyện đi xuống, Mỹ vừa đổ một chiếc trực thăng. Họ đếm được sáu thằng cả Mỹ đen và Mỹ trắng; thằng nào thằng nấy vẽ rằn ri trên mặt thấy gớm ghê. Kiểu này là bọn biệt kích Mỹ, đổ quân thăm dò tìm dấu vết quân Giải Phóng đây. Đơn vị cấp tốc chuẩn bị, gồm ba khẩu B-40, mỗi khẩu B-40 có hai khẩu AK yểm trợ, một anh du kích có khẩu Cạc Bin dẫn đường cho cả đơn vị. Theo sự thông báo của các du kích địa phương, hễ tụi biệt kích chuẩn bị tới nhà ai là mọi người trong gia đình phải ra khỏi nhà; để cho bộ đội nổ súng tránh gây thiệt hại cho dân.

Mặt trời còn cách mấy ngọn dừa cả nửa cây sào, theo sự dẫn đường của anh du kích; đơn vị tôi cứ luồn lách trong vườn dừa mà đi. Hết leo lên bờ dừa lại phải lội qua mương; vì khi trồng dừa người ta đã đào mương lên liếp, có lẽ để cho nước ra vào dưới mương mà cung cấp nước cho những cây dừa. Thành thử người nào người nấy cứ ướt như chuột lột. Khi mặt trời vừa lặn, đơn vị còn cách căn nhà khoảng 100 mét nơi tụi biệt kích Mỹ vừa dừng chân. Mọi người được lệnh phải bò qua bờ dừa lội dưới mương nước để tiếp cận căn nhà. Khi còn cách căn nhà một cái mương, chúng tôi bò tới chiếm lĩnh bờ mương mé bên này. Chưa kịp chọn vị trí để chờ nổ súng. Bỗng một tràng đại liên M- 60 từ bờ mương dừa sát góc phải ngôi nhà bắn về phía chúng tôi. Đạn găm vào thân cây dừa nghe bịch bịch; văng mảnh thân dừa rơi xuống mương nước rào rào. Khẩu lệnh của trung đội trưởng vang lên át cả tiếng đạn nổ:

-B-40 bắn!

Tôi xoay cho quả B-40 vào ngàm trong ống phóng nghe tiếng: Cạch! Đưa họng súng hướng về căn nhà trước mặt bóp cò: Oành – Đùng! Nghe hơi nóng như lửa thổi lại người, hoảng hồn tôi hụp cả thân mình lặn xuống nước. Ngẩng đầu lên mới hay, đằng sau lưng là mấy bụi dừa nước thưa thớt, cũng may nếu chúng mọc dày đặc chắc chắn tôi sẽ bị chết cháy bởi hơi nóng phản lực dội lại của quả B-40 ban nãy. Lúc này tiếng B-40 và AK-47, cùng Cạc Bin nổ rền vang; khẩu đại liên M-60 đã câm bặt. Tôi vội vàng nắp thêm quả B-40 nữa bắn vào ngôi nhà.

-Xung phong! Xung phong…!

Mọi người cùng hô xung phong hòa trong tiếng hô vang của trung đội trưởng. Tôi nhảy lên bờ dừa, rồi nhảy xuống mương lội qua. Dưới ánh đèn pin nhoang nhoáng, cảnh tượng thật kinh hoàng: Cả chục cái lu to chứa nước mưa bị bắn thủng đang phun nước ra tung tóe, chảy ướt hết cả sân và nền nhà. Xác mấy thằng biệt kích Mỹ nằm chết còng queo rải rác trong nhà, ngoài sân do sức nóng của những quả hỏa tiễn B-40, và trúng đạn AK, Cạc Bin. Máu người chảy vào dòng nước từ các lu nước phun ra đỏ au, chảy lênh láng cả mặt sân dưới ánh đèn pin. Khẩu đại liên M-60 nằm chỏng chơ trên bờ mương góc bên phải ngôi nhà. Mọi người đang ùa vào trong nhà thu chiến lợi phẩm gồm: Mấy khẩu M-16, cùng chiếc máy truyền tin PR-25, điều đặc biệt có cả chiếc hồng ngoại tuyến. Thảo nào hồi nãy thằng lính gác nhờ vậy đã nhìn thấy chúng tôi trong đêm tối nên bắn trước. Tôi đứng rọi đèn pin cho đồng đội thu chiến lợi phẩm. Khi đồng đội đang loay hoay mở nắp khẩu đại liên để gỡ băng đạn ra. Tôi lia ánh đèn pin tìm kiếm; dưới ánh đèn tôi nhìn thấy những dấu chân giày to hướng về phía mương nước. Vội rọi đèn theo, tôi thấy nước ở dưới mương đục ngầu thành vệt, tới gốc dừa bên kia bờ mương đã bị sạt lở đất. Những chùm rễ dừa già ken vào nhau chuyển màu vàng, chen lẫn trong đó là những rễ mới mọc màu trắng. Bỗng tôi nhìn thấy trong hốc dừa bị lở đất hõm vào, hai vệt sáng dội lại ánh đèn, y như những lần đi săn ở trên rừng bắt gặp những cặp mắt thú, khi thấy ánh đèn dương hai mắt đứng nhìn. Tôi nhìn kỹ, thấy nửa cái đầu tóc quăn tít đen thui nhô trên mặt nước, mặt mũi vằn vện do những vệt hóa trang. Cặp mắt trắng dã đang run sợ nhìn ánh đèn pin của tôi. Nước trong cái hốc dừa màu đục đỏ hình như có trộn cả máu trong đó. À thì ra đây là một tên biệt kích Mỹ người da đen, hồi nãy cầm khẩu đại liên M 60 ngồi gác. Khi phát hiện ra chúng tôi bò vào chiếm lĩnh trận địa, đã nhanh tay bắn mấy chục viên đạn. Có lẽ do bất ngờ và hoảng hồn, đường đạn bay cao nên chả trúng người nào bên đơn vị tôi. Chắc chắn khi bị những quả đạn B-40, và những tràng đạn AK bắn phủ đầu mạnh quá. Anh ta có lẽ trúng đạn nên đã bỏ cả khẩu đại liên và cái hồng ngoại tuyến bò xuống mương nước. Lần mò trong đêm tối tìm thấy chỗ lõm vào của gốc dừa mà chui vào ẩn nấp.

Những ý nghĩ chợt thoáng nhanh trong đầu tôi, khi tôi lia ánh đèn pin qua hướng khác. Chính nó là lính của quân đội xâm lược, tự dưng nhảy vào nước người ta, đem súng đạn và cả người bắn giết tàn phá đất nước này, với những tuyên truyền: “Bảo vệ thế giới tự do”. Hay nó cũng chỉ như mình tới tuổi là phải đi lính, không đi sẽ phải đi học tập cải tạo và gia đình cũng sẽ bị hành lên hành xuống? Vậy mà khi vào miền Nam anh nào anh nấy cũng phải viết đơn tình nguyện. Biết đâu nó cũng chỉ là thằng lính phải đi theo lệnh tổng động viên thì sao? Mà hiện tại nó đang bị thương, với khuôn mặt đó chắc cũng ngót nghét ba mươi tuổi, làm gì mà không có vợ con như mình nhỉ. Bây giờ chỉ cần tôi hô lên một tiếng là sẽ có cả băng AK xổ vào dưới hốc dừa nơi hắn đang ẩn nấp. Chắc chắn bên kia quả đất sẽ có một người vợ mất chồng và những đứa con mất cha. Tôi lia ánh đèn pin trở lại hốc dừa, cái đầu đen thui vội lặn xuống để lại những gợn sóng nhỏ trên mặt nước. Tôi nhủ thầm: “Tao biết hết cả rồi, nhưng tao tha cho mày đó, vì tao không muốn giết kẻ đang bị thương và trong tay không còn vũ khí.” Và rồi tôi cắm đầu chạy theo đồng đội đang trên đường rút quân.

TAN NÁT MỘNG CỜ HOA

Chả biết do duyên số hay bởi sắc đẹp không bằng ai; mà tới năm ba mươi bảy tuổi Hoa
mới có một Việt Kiều từ bên Mỹ về nhờ mai mối đánh tiếng. Chẳng cần suy nghĩ, Hoa cũng đành chặc lưỡi, ừ thì lấy chồng cho mọi người khỏi dị nghị. Bao năm nay nghe nói được qua sống bên Mỹ là ước mơ của nhiều người. Chính cái người hỏi Hoa làm vợ cũng đã từng vượt biên đến lần thứ ba mới thoát. Bây giờ nhờ thời kỳ mở cửa nên họ mới được quay về Việt Nam, chứ cứ như trước kia bị chụp cho cái mũ: “Bọn phản quốc” có lẽ suốt đời phải ly hương.

Ông chồng tương lai của Hoa vượt biên từ năm hai mươi mấy tuổi, đến nay xấp xỉ bốn mươi tuổi mà cũng chưa có vợ con. Hỏi ra mới hay cưới vợ người Việt bên Mỹ đâu có dễ dàng gì, phần còn lo làm ăn để trả nợ cho căn nhà mua trả góp, qua mười mấy năm mới trả hết nợ mua nhà. Bây giờ anh chồng mới nghĩ đến về Việt Nam thăm quê hương sau bao nhiêu năm xa cách, nhân tiện cũng cưới vợ luôn thể.

Duyên tình lận đận ngay đến ngày sắp cưới thì bà mẹ Hoa lăn đùng ra chết do cơn nhồi máu cơ tim. Theo phong tục đành phải đình đám cưới; chờ đúng ba năm mãn tang mới được cưới. Bố Hoa đã chết cả chục năm rồi, thành thử Hoa phải quán xuyến cửa hàng kinh doanh vàng bạc thay mẹ. Anh chồng tương lai đành buồn thiu quay về Mỹ sau hai mấy ngày ở Việt Nam. Trong thời gian chờ đợi hai bên vẫn gọi điện thoại cho nhau liên tục.

Đúng như những lời anh chồng đã hứa, sau ngày mãn tang mẹ của Hoa chưa được một tháng. Từ bên Mỹ anh trở về Việt Nam làm đám cưới linh đình với Hoa. Họ hàng ai cũng mừng là Hoa duyên số may mắn dù lớn tuổi mà lấy được anh chồng Việt Kiều đã có sẵn nhà cửa; với nhiều người là cả mơ ước không tưởng.

Đang thừa kế cửa hàng kinh doanh vàng bạc của cha mẹ, Hoa đành phải dẹp tiệm bỏ nghề để theo chồng qua định cư bên Mỹ. Qua mấy tháng ăn dầm nằm dề ở nhà chồng, trong khi chẳng biết làm một nghề gì, tiếng Anh thì không biết, có đi học nhưng mà học đàng trước nó lại chạy ra đàng sau. Biết mình đã có thai, một hôm Hoa thủ thỉ với chồng:

-Này anh, ở Việt Nam từ nhỏ đến lớn em chỉ phụ mẹ buôn bán vàng bạc, chứ có biết làm nghề gì đâu. Hiện nay em còn một số vốn mua được mấy lô đất cùng mua vàng và gửi ngân hàng bên đó; anh hãy để em về bên đó bung vốn ra làm ăn. Dù sao bên đó đang thời kỳ mở cửa kinh tế thị trường, nhìn chung nó cũng giống như thời kỳ tư bản hoang giã ở bên châu Âu cách nay cả trăm năm. Nền kinh tế còn đang dò dẫm mạnh ai nấy đua nhau làm, dẫu sao cũng còn dễ làm ăn nhỏ lẻ; chứ ở bên này nó đã ổn định rồi, vốn liếng phải to lớn họa may… Mà em thì có được học hành gì đâu với lại đồng vốn nhỏ lẻ, chỉ có về Việt Nam mới có đất làm ăn.

Anh chồng ngập ngừng:

-Nhưng mà xa cách rồi làm sao vợ chồng gần gũi? Hoa ôm chồng hôn lên khuôn mặt đang đầy lo âu:

-Anh không nghe câu: “Có tiền là có tất cả à?”. Anh cứ yên tâm em về bên đó làm ăn chắc chắn sẽ thắng, có tiền cứ sáu tháng em lại bay về đây gặp anh được không? Còn nếu mắc việc thì em gửi tiền cho anh bay về Việt Nam thăm mẹ con em mà.

Khi về Việt nam Hoa bán vàng và rút vốn trong ngân hàng ra; suốt ngày chạy lòng vòng các quận. Cứ có điểm dịch vụ cò đất nào là Hoa ghé hỏi thăm và đi coi; chỗ nào cảm thấy giá rẻ hơn biết chủ mắc kẹt cần tiền bán là mua. Chưa đầy một tháng Hoa đã gom mua được vài căn nhà và gần cả ngàn mét vuông đất. Lúc này cò phân lô tự phát rất nhiều, vì dân từ các vùng nông thôn đang đổ dồn về thành phố, nơi có nhiều xí nghiệp nước ngoài đầu tư. Dân đông thì dịch vụ ăn theo cũng bùng nổ, nhu cầu đất đai nhà ở cũng tăng theo. Mua rồi nếu gặp may lời vài phân cho đến mấy chục phân là bán; cứ nhận tiền đặt cọc lô đất hoặc căn nhà này là Hoa lại đi tìm và đặt cọc lại căn nhà hoặc lô đất khác. Nhờ xoay vòng nhanh mua vào bán ra, nguồn vốn của Hoa chưa tròn năm đã tăng gần gấp đôi.

Giá nhà đất bao nhiêu năm cũng chỉ bình bình, cùng lắm nơi nào nghe đồn thổi sẽ có dự án khu dân cư lớn thì cũng chỉ tăng vài chục phần trăm là cùng. Bước qua năm 2000 cơn sốt đất rục rịch tăng giá, có khi vừa mua xong vài ngày sau giá đã tăng vài chục phân. Hoa lỡ bán mấy căn nhà, thấy giá cả lên kỳ cục; linh tính cơn sốt đất sẽ đến lúc tăng lên đỉnh, vì các nước tư bản cũng có những cơn sốt nhà đất. Trong khi Việt Nam đã mở cửa thị trường cho tư bản nước ngoài ồ ạt đổ vốn vào, chắc chắn giá nhà đất ở Việt Nam sẽ theo vết xe của các nước tư bản mà thôi.

Găm hàng không bán, Hoa còn đem những căn nhà và lô đất có giấy tờ hợp lệ ra ngân hàng thế chấp và vay tiền. Và tất nhiên phải biết phải trái với họ, cứ thẳng thắn lật bài họ sẽ hưởng ít nhất cũng vài phần trăm trên tổng số tiền mỗi lần vay. Nhờ vậy mà Hoa đã vay được số tiền nhiều khi vượt cả giá trị tài sản thế chấp. Có tiền trong tay Hoa tung ra mua hết từ nhà cửa cho đến đất đai. Và găm hàng, ngồi chờ. Có điều lạ cơn sốt đất này bùng nổ rất lớn so với cơn sốt đất lần trước; có lẽ do Việt Nam hội nhập kinh tế thị trường, phần do những đầu nậu buôn bán đất lớn, phần Việt Kiều gửi tiền về cho thân nhân mua, và một số người Hoa gửi tiền núp danh bằng tên Hoa kiều gom mua; nên nhà đất cứ tăng theo ngày tháng.

Nằm chờ và thấy giá cả nhà đất có chiều hướng chựng lại; Hoa bắt đầu bung ra bán toàn bộ số nhà đất đã mua. Tính sơ sơ qua cơn sốt đất này tổng vốn của Hoa đã tăng lên ba bốn lần. Kể từ khi sinh được đứa con tới nay đã được bốn tuổi; vì công việc cứ phải đi suốt ngày. Bây giờ có tiền nhiều nên Hoa đã thuê hẳn một bảo mẫu nuôi đứa con. Người chồng ở bên Mỹ cứ một vài năm lại về thăm vợ con bên Việt Nam. Còn Hoa phải bay về Mỹ khi giấy thông hành (Passport) đã hết hạn. Tuy vợ chồng ở cách xa nhau cả nửa vòng trái đất, nhưng gặp nhau một năm ít nhất cũng được một lần.
Trong kinh doanh ai cũng toan tính những rủi do có thể xảy ra; nên một số vốn bán nhà đất sau cơn sốt, Hoa bung ra mua những căn nhà mặt tiền phố; phần còn lại mua vàng và gửi ngân hàng. Đúng như câu thành ngữ của các cụ đã đúc kết kinh nghiệm bao đời: “Đừng bao giờ bỏ thóc vào một giỏ”.

Những ngày tháng nằm im chờ giá nhà đất nhúc nhích. Suốt ngày Hoa chỉ biết ra các quán cà phê nghe ngóng với bạn bè cùng cánh hẩu. Một lần đang ngồi nhâm nhi ly cà phê buổi sáng, một người đàn bà còn trẻ hơn Hoa dáng vẻ dân sang trọng lại bên bàn lịch sự chào:

-Em xin chào chị Hoa!

Vừa chào cô ta vừa kéo ghế ngồi đối diện với Hoa. Ngẩng mặt lên Hoa nhìn cô ta ngạc nhiên:

-Hình như tôi chưa hề gặp cô lần nào mà? Cô ta cười giả lả:

-Dạ đúng vậy, xin tự giới thiệu em tên là Thùy, chị không biết em chứ em biết chị rành lắm. Dân buôn bán nhà đất ở quận này nhắc đến tên chị ai mà không biết?

Gọi ly cà phê sữa đá, vừa uống cô ta vừa hỏi Hoa :

-Độ này nhà đất đứng giá có chiều hướng đang đi xuống, chị còn buôn bán được không?

Hoa nhìn mông lung lên giàn hoa thiên lý trước cửa quán, thở dài:

-Giá nhà đất đang lao dốc thế này, ôm vào mà sặc máu à.

Cô ta nhìn Hoa tỏ vẻ thân mật:

-Nếu chị tin em, thì…

Bỏ lửng câu nói cô ta cầm muỗng khuấy ly cà phê, mắt lơ đễnh nhìn ra phía cửa quán.

Hoa buột miệng:

-Em định nói gì với chị, sao lại im lặng? Cô ta nhìn thẳng vào mắt Hoa:

-Thế này chị ạ, tụi em đang chơi trên sàn vàng ảo, nhà cái là một ngân hàng lớn, cái này nhanh ăn lắm. Miễn sao mình nhắm đúng lúc nào giá lên hoặc xuống đặt mua, phần chênh lệch họ trả ngay bằng việc chuyển tiền vào tài khoản cho mình. Ví dụ: giá vàng hôm nay: 5 triệu 420 ngàn đồng 1 cây, chị đánh giá lên: 5 triệu 450 ngàn đồng 1 cây; mà giá nó lên đúng như vậy, số tiền chênh lệch chị thắng sẽ là 30 ngàn đồng trên 1 cây vàng. Họ sẽ nhân với số cây vàng chị đã đặt mua, tổng số tiền chị thắng họ sẽ chuyển vào tài khoản của chị. Còn ngược lại chị đánh mà đoán sai cả giá lên và xuống, họ sẽ lấy số tiền chênh lệch chị đoán sai của một cây vàng nhân với tổng số cây vàng chị đặt mua; tổng số tiền họ sẽ trừ vào tài khoản của chị.

Chăm chú ngồi nghe, Hoa buột miệng:

-Chơi đơn giản vậy thôi à, ai cũng chơi được mà. À mà này… sao nó giống trò chơi đánh bạc thế?

Thùy đưa ly cà phê lên uống thêm một ngụm, nhìn Hoa cười:

-Chị yên tâm đi nhà cái là một ngân hàng lớn, họ kinh doanh kiểu này cũng phải có giấy phép cả đấy chứ. Thể lệ nó cũng đơn giản thôi chị ạ, cụ thể chị sẽ đăng ký mua trước một số vàng ảo và ký quỹ mười phần trăm (10 %) trên tổng số vốn.

Xoay xoay cái ly rồi cầm lên uống cạn, bỏ ly xuống cô ta thủng thẳng:

-Nếu trường hợp đánh thua hết vốn, cũng giống như ly nước em uống đây, hết nước phải châm thêm thì cuộc chơi sẽ tiếp tục; còn nếu không có tiền ký quỹ nữa kể như cuộc chơi chấm dứt.

Cầm tay Hoa cô ta hồ hởi:

-Cũng nhờ có chơi vàng ảo này mà nay em mới có nhà mặt tiền ở nội thành, còn mấy căn nhà cho thuê nữa đấy chị a. Nhưng ăn thua mình phải biết căn me đoán đúng giá vàng lên hay xuống mà đặt mua. Cứ yên tâm đi nếu chị chơi sẽ có em ủng hộ, có gì em sẽ tham vấn cho.

Hoa đã theo Thùy tới ngân hàng, mua khống ký quỹ cả vài ngàn cây vàng mà chưa tới một tỷ đồng. Trong lần đánh đầu tiên do đoán đúng giá vàng lên chênh lệch được cả trăm ngàn đồng trên một cây vàng; tính sơ sơ cú đầu nhập cuộc chỉ cần bấm máy tính, thế là sáng hôm sau trong tài khoản đã tăng thêm mấy chục triệu. Liên tiếp theo sự tham vấn của Thùy số vốn của Hoa chưa được một tháng mà đã gần gấp đôi. Nhẩm tính chả có kinh doanh kiểu nào mà lãi nhanh như thế này.

Người tính không bằng… thủ đoạn lừa. Những lần đánh sau này thua nhiều hơn thắng. Cứ hôm nào đoán trúng giá vàng lên xuống chênh lệch nhiều, y rằng vào mạng bị đứng máy; hoặc có đánh sớm hơn không bị kẹt mạng mà số tiền thắng vẫn không thấy vào tài khoản của Hoa. Có hỏi thì họ đổ thừa cặp nhật không được giá vàng thế giới, hoặc bị kẹt mạng. Mấy lần ký quỹ chả được bao lâu là lại hết. Đến nỗi số vàng để dành Hoa cũng bán đem ký quỹ vì Hoa cay cú mất nhiều vốn những mong gỡ lại. Chưa được nửa năm số tiền và vàng của Hoa đã bay hết về nhà cái.

Cay cú còn đang phân vân, không biết làm cách nào có tiền để ký quỹ chơi tiếp, những mong gỡ lại số tiền đã mất. Bỗng tiếng điện thoại reo, Hoa bắt máy:

-A lô, chị Hoa hả? Ra quán bờ sông uống nước với tụi em đi; chị cứ nằm nhà cho nó chảy mỡ ra à!

Nghi ngờ cái cô Thùy dẫn dắt Hoa vào chơi vàng ảo là những cò mồi. Nhưng Hoa vẫn lên xe máy chạy ra quán cà phê bờ sông. Chưa định thần nhìn coi Thùy ngồi đâu đã nghe:

-Chị Hoa!

Bàn Thùy ngồi có hai người đàn bà sồn sồn dáng vẻ thanh nhã cao sang. Khi đã yên vị trên ghế ngồi, ly cà phê sữa đá để trên bàn mà Thùy đã gọi sẵn theo gu của Hoa. Chưa kịp hỏi han gì thì Thùy đã vào đề:

-Xin giới thiệu với chị đây là hai bà chị cùng cánh hẩu chơi vàng ảo với em. Lúc đầu chập chững cũng thua muốn sập nhà, sau rút kinh nghiệm, không những gỡ lại vốn mà nay còn dư vốn mua được cả một khách sạn ngoài Nha Trang nữa đấy.

Hai người kia cũng xen vào kể lể quá trình thua và đã thắng là do kinh nghiệm biết căn me, chứ chơi cái này hấp tấp là thua to.

Hoa cũng thú thật đã hết vốn tiền mặt, chỉ còn mấy căn nhà mặt tiền đường, mà giá nhà đất đứng khựng như thế này đâu phải dễ bán. Nghe Hoa phân trần, Thùy chen vào:

-Cái đó có gì đâu mà khó chị.

Đưa tay cầm muỗng khuấy mạnh ly cà phê, Thùy nhìn Hoa:

-Nếu chị muốn chơi để gỡ vốn và chị tin tưởng; thì em sẽ dẫn chị đem giấy tờ nhà đất tới ngân hàng thế chấp, là mình lại có tiền ký quỹ đánh tiếp chứ có gì đâu. Ma xui quỷ xúi làm sao, Hoa đã đem giấy tờ mấy căn nhà ra ngay ngân hàng làm cái đánh vàng ảo thế chấp. Thực tế một căn nhà đáng giá 300 cây vàng theo giá hiện hành, họ chỉ định giá có 250 cây và họ chỉ cho vay bằng một phần ba trên số tiền họ định giá căn nhà. Nhưng có một điều trong bản hợp đồng ghi cầm cố căn nhà; nếu quá hạn không có tiền trả là họ có quyền hóa giá căn nhà. Đang say máu gỡ lại số tiền đã mất, bất chấp nghĩ hậu quả và cả những điều gài bẫy trong bản hợp đồng của ngân hàng, Hoa chặc lưỡi: Kệ!

Dù có thận trọng căn me giá cả đến mấy; chỉ vài tháng sau tổng số tiền ký quỹ mấy căn nhà đã bay hết. Vẫn những bài bản cũ của họ, khi giá vàng chênh lệch ít nếu đánh trúng thì họ cho ăn; nếu đoán sai chênh lệch nhiều thì họ trừ ngay vào tài khoản. Nhưng những lần Hoa căn me đoán đúng giá cả chênh lệch nhiều thì y như rằng họ ra thông báo không cập nhật kịp giá vàng thế giới, hoặc bị kẹt mạng không thể vào được.

Chần chừ mãi Hoa mới dám điện thoại cho chồng ở bên Mỹ, kể rõ sự tình hết sạch vốn do chơi vàng ảo. Năn nỉ anh chồng có thể đem căn nhà của anh bên đó, ra ngân hàng chế chấp vay vài trăm ngàn đô la để cho Hoa có thể gỡ vốn lại. Nghe tới đây anh chồng nổi cơn thịnh nộ, chửi xối xả về sự ngu dốt của Hoa đã bị họ lừa. Ngay như nước Mỹ trùm tư bản trải qua mấy trăm năm hoàn chỉnh căn ke luật pháp như vậy; mà vẫn bị những cú lừa của những đại gia tư bản. Chứ nói chi cái xứ mới hình thành nền tư bản hoang dã, thiếu chi những kẽ hở để bọn núp danh lợi dụng lừa đảo. Và anh ta cũng thẳng thắn tuyên bố rất khoát kể từ nay; không còn dính dáng gì về tình nghĩa vợ chồng nữa.

Hoa bủn rủn cả chân tay, xây xẩm mặt mày; cái điện thoại rớt khỏi tay hồi nào không hay. Con thì còn nhỏ, mộng về Việt Nam buôn bán kiếm vài triệu Đô La rồi trở về Mỹ. Vợ chồng, con cái sẽ có một số tiền lớn để nuôi con ăn học thành tài và an phận lúc tuổi già. Ngờ đâu bị trò chơi vàng ảo trắng tay, biết bị lừa mà kiện ai được khi họ đã gài vào bẫy hết cả rồi. Bây giờ vợ chồng “tan đàn xẻ nghé”; bao nhiêu mộng trở về thiên đường đất nước Cờ Hoa đã tan thành mây khói.

THIÊN DI CUỐI ĐỜI

Bây giờ suốt ngày lão lủi thủi trong căn nhà, không dám ló mặt ra ngoài vì một câu tiếng Anh cắn đôi cũng không nói trọn vẹn. Ở cái khu dân cư này phần nhiều là dân gốc Việt; thời buổi bùng nổ thông tin nên họ biết cặn kẽ về tội lỗi quá khứ của lão ở Việt Nam. Đã mấy lần lão đi ra ngoài hít thở không khí trong lành, và vận động người cho máu huyết lưu thông. Gặp mấy người Việt Nam họ nhìn lão với con mắt khinh bỉ, thậm chí có người đi ngang mặt lão còn khạc nhổ phun ra trước mặt lão cả những bãi nước bọt. Lão chỉ biết cắm đầu mà đi, tự nhủ thầm: “Dù sao cũng còn hơn ở bên Việt Nam”; vì ở đó có nhiều mụ già đanh đá; hoặc mấy lão nhậu say còn chửi thẳng vào mặt lão là: “Quân ăn cướp… Đồ bất nhân…”! Chả là hồi đương chức đương quyền, lão và bè lũ quan lại cùng cánh hẩu, câu kết với nhau xà xẻo công quỹ. Có lẽ vụ lộ tẩy nhất là đã ký giấy giải tỏa mặt bằng; bất kể dân cư đang ở và cả chùa chiền, nhà thờ đều bị cào bằng; theo định giá ăn cướp của lão và lũ quan tham.

Bao nhiêu năm làm quan nhận tiền hối lộ của những nhóm người kinh doanh. Lão lại hoán đổi lấy củi nấu đậu, lấy tiền đó góp vốn vào trong các dự án kinh doanh đất đai của những tay đầu lậu để được ăn chia với giá chênh lệch hàng chục lần. Gom góp lão gửi qua bên Mỹ theo diện cho con ăn học và mua nhà cửa để sẵn, lão tính đánh bài chuồn khi hết nhiệm kỳ. Thực tế chứng minh từ xưa tới nay có chế độ nào tồn tại vĩnh cửu đâu. Biết đâu thời thế thay đổi truy ra những tội lỗi của lão đã gây ra khi đương chức. Thôi thì trong ba mươi sáu chước, chỉ có chước: “Tẩu vi thượng sách” là chắc ăn hơn cả.Thế là lão ra đi theo sự bảo lãnh của những đứa con đã có quốc tịch bên Mỹ. Đêm đêm lão mất ngủ khi nhớ về quê hương và quá khứ tội lỗi của mình…

Sinh ra trong một làng quê thuần nông thuộc vùng Đồng Tháp Mười Nam Bộ. Nơi mảnh đất mang tiếng là thẳng cánh cò bay; nhưng từ đời ông nội cho đến đời cha lão, chẳng hề có lấy một mảnh ruộng mà cấy cày. Có được căn nhà mái lợp bằng lá dừa nước, vách cũng thưng lá dừa, nằm toen hoẻn bên bờ sông Vàm Cỏ Đông. Cắp sách đi học sáu, bảy năm mà lão cũng chỉ học tới lớp ba trường làng. Bởi học thì dốt nên chán nản sợ vào lớp bị thày quở phạt vì không thuộc bài; đành cứ trốn học theo mấy đứa trẻ trâu nhong nhong trên lưng trâu suốt cả buổi. Đợi tan lớp học cũng ôm tập vở về nhà. Mải lo làm thuê làm mướn nên ba má lão cũng chả thèm để ý, khổ nỗi ba má lão có biết chữ nào đâu mà kiểm tra bài vở của con. Học hết lớp ba trường làng, chiến tranh len lỏi tới vùng lão. Một lần có những anh nghe nói là Quân Giải Phóng về gom dân chúng lại họp. Họ lên án chế độ độc tài Ngô Đình Diệm; và những sự thối nát của quan lại. Họ nói họ sẽ là người giải phóng nhân dân khỏi ách thống trị độc tài, và điều đặc biệt là sẽ lấy lại ruộng đất của kẻ giàu có chia cho dân nghèo, và dưới chế độ mới mọi người sẽ bình đẳng như nhau, san bằng giai cấp không còn kẻ giàu người nghèo…Cuối cuộc mít tinh là lời hô hào thanh niên nam nữ tham gia Quân Giải Phóng. Lão thấy người ta lũ lượt lên đăng ký kể cả nam lẫn nữ. Lão cũng cố chen vào xin ghi tên, người cán bộ ngắm nghía từ đầu đến chân lão. Sau khi hỏi tên, tuổi lập tức anh ta dẫn lão lên đứng trên bục cao, giới thiệu và cổ vũ mọi người về tinh thần của lão tuy rằng còn nhỏ tuổi; nhưng đã có tinh thần yêu nước cao độ. Sau màn giới thiệu, hàng loạt thanh niên nam nữ nữa lên ghi tên xung phong vào Quân Giải Phóng.

Mãn cuộc mít tinh, lão chỉ kịp chạy về nhà thông báo cho ba má biết là lão sẽ theo Quân Giải Phóng. Như tin sét đánh, bà má vừa khóc vừa chạy thẳng một mạch theo lão tới tận nơi tập trung. Nói và năn nỉ trong nước mắt với cán bộ, bảo lão phải về đi học chứ còn nhỏ, bom đạn ác liệt ngoài mặt trận làm sao chịu nổi. Lão bỏ ngoài tai tất cả, và dửng dưng nhìn những giọt nước mắt chảy dầm dề trên hai gò má nhăn nheo đen thui của má lão. Lâu lâu bà lại kéo cái lai quần đã cũ mèm và dính phèn vàng khè, cúi xuống lau nước mắt. Nói và nước mắt không lay động nổi đứa con, bà móc túi lấy ra những đồng tiền lẻ dúi vào tay lão. Lão cầm tiền chỉ thốt được mỗi câu:

-Má về đi!

Bà quệt nước mắt tức tưởi ra về, vừa đi vừa ngoảnh mặt lại nhìn đứa con bướng bỉnh cho đến khi khuất bóng. Đêm tổ chức văn nghệ tại xã của lão đã kết thúc thắng lợi, theo như phát biểu của ông chính trị viên đại đội. Nửa đêm đơn vị phải hành quân, lão cũng lẽo đẽo theo sau lòng khấp khởi mừng thầm, vì từ nay lão sẽ thành chiến sĩ Quân Giải Phóng. Vì còn là con nít, nên tới nửa đêm cơn buồn ngủ cứ ập đến, lão vừa đi vừa ngủ gật, có lúc ngã vập mặt xuống ruộng nước. Mấy anh chiến sĩ kéo lão lên cằn nhằn:
-Còn con nít không lo học hành, bày đặt ham vui rồi mai kia lại khóc lóc nhớ má đòi về.
Nghe câu nói đó, lão tỉnh hẳn ngủ bụng nhủ thầm: “Rồi các anh sẽ biết”.

Trận đầu tiên mà lão phải đụng độ, hôm đó mặt trời mọc vừa vượt khỏi mấy ngọn dừa cuối xóm. Đã thấy chiếc máy bay trinh sát OV-10, lượn vòng vòng trên địa hình đơn vị đóng quân, trên một rẻo toàn là những cây dừa nước nằm bên bờ con sông Vàm Cỏ Tây. Sau một hồi nghiêng qua nghiêng lại, một quả pháo màu đỏ bắn xuống ngay giữa địa hình. Chưa đầy vài phút sau ba chiếc máy bay phản lực nhào tới, chúng cứ thay nhau đâm bổ nhào xuống mỗi lần là hai trái bom lùi lũi lao xuống. Ngồi dưới hầm người cứ đung đưa như đưa võng, đất, gốc cây dừa nước, bần, đước… bị bom bật tung lên nằm nghiêng ngả. Cành cây, thân lá dừa nước… bị bom nổ tung lên rơi xuống đất nghe bình bịch. Nằm chung hầm với đại đội trưởng vì hắn được lấy làm liên lạc. Khi quân lính dàn hàng ngang vừa đi vừa bắn xối xả vào địa hình. Đại đội trưởng bảo lão phải bò lên hàng công sự phía trước, truyền lệnh: “Địch tới sát bên mới được bắn”! Lúc này đạn thẳng của địch bắn sát sàn sạt vào các gốc dừa và thành công sự nghe phịch, phịch… Lão sợ run bắn người mà cũng phải cố trườn trong sình lầy bò lên phía trước truyền lệnh. Quả như ý đồ của đại đội trưởng, ngay loạt đạn đầu bên đơn vị lão đã hạ cả chục tên địch. Cầm cự đâu đến giữa trưa đơn vị phải bám theo triền sông rút lui vì hỏa lực của địch quá mạnh, và quân số đơn vị cũng hao hụt nhiều.

Khi đơn vị đã đến nơi đóng quân an toàn, đại đội trưởng vò đầu lão khen:

-Khá lắm, lần đầu đụng độ bom đạn như vậy là lỳ lắm rồi.

Lão chỉ biết nhe răng ra cười. Ngay sau lần chống càn đó lão được phát cho khẩu cạc bin (carbine), so với khẩu AK nó vừa nhẹ vừa gọn gàng. Vì làm liên lạc nên lão theo sát ông đại đội trưởng; đến khi được phong cấp tiểu đội trưởng ở tuổi mười bảy, lão mới phải xa ông.

Có lẽ do cao số dù đụng độ bao nhiêu trận, từ chống càn cho đến công đồn, phục kích… Đồng đội của lão lớp chết lớp bị thương gần hết; vậy mà lên tới chức đại đội trưởng, lão chỉ bị duy nhất một viên đạn đại liên bắn trúng ngực phải.
Hòa bình. Đại đội trưởng ngày xưa của lão chuyển ngành về làm trưởng ty ( sở). Ông ta khuyên lão nên giải ngũ chuyển ngành; và hứa cho lão được giữ ngay chức trưởng phòng tổ chức, truy ngang cấp bậc trong quân đội.

Làm trưởng phòng mà trình độ có lớp ba trường làng, đối với lão là cả một cực hình. Nhưng dưới tay lão cấp trên đã điều vào những cô, cậu có trình độ chuyên môn từ ngoài miền Bắc. Công việc tính toán, giấy tờ lão đều giao cho họ làm hết. Có lần tay phó phòng gặp riêng lão ở quán nhậu, ghé tai lão thủ thỉ:

-Có vấn đề em muốn nói thật với anh Ba mà… Hơi men đã chếnh choáng lão lừ đừ mắt:

-Đ.M! Dân Nam Bộ thích nói thẳng, có gì cứ huỵch tẹt ngại ngần cái đếch gì.

-Thế thì em xin nói thẳng… Có nhiều người muốn xin vào cơ quan của ta, nếu cứ xét lý lịch, bằng cấp thì… Nói chung họ toàn những người còn trẻ chưa hề trải qua bom đạn chết chóc; nhưng họ cứ thích được ngồi vào chỗ ngon lành để xà xẻo. Theo em…

Lão ngắt ngang:

-Chú khỏi nói nữa, anh hiểu cả. Khổ nỗi mấy năm nay anh phải học bổ túc văn hóa cho hết cấp ba phổ thông. Nào đã được yên thân đâu, còn phải đăng ký học đại học tại chức cho đủ bằng cấp theo yêu cầu của cấp trên. Đâu được như chú mày có điều kiện ăn học từ hồi còn trẻ.

Lão nhìn vào mắt tay phó phòng nháy mắt đưa ly bia lên, hai người uống một hơi cạn.

Lão thủng thẳng:

-Việc này anh giao cho chú mày lo đầu vào, rồi báo cáo anh còn các anh trên lãnh đạo để anh lo… Mà này, phải chia tam, chia tứ cả đấy; nếu không muốn chúng mình chui vào nhà đá cả lũ.

Tay phó phòng gật gật đầu:

-Dạ… em hiểu… em hiểu!

Trò đời phải biết củi đậu nấu hạt đậu. Lão đã biết kết hợp nhuần nhuẫn chiêu thức đó, cứ gom được mớ tiền của những tay đàn em lo lót; lão lại đem phần lớn cúng kiếng lên các xếp trên lão. Luôn luôn lão tâm niệm; phải leo cao hơn nữa, một miếng ăn to ngon hơn và chắc hơn kiểu ăn vặt. Các xếp của lão, ai cũng phải khen lão sống biết kẻ trên người dưới. Nên vừa học xong khóa đại học tại chức chả bao lâu, lão đã leo tót lên chức phó giám đốc sở.

Ngày tháng cứ trôi, tiền vào túi lão do những đàn em biếu xén vì được ưu ái cất nhắc, cùng những đầu lậu đất đai biếu ngầm bằng những cổ tức bởi được duyệt các dự án. Buổi tối thứ bảy khi lão đã ngà ngà say sau một tiệc rượu do một công ty tư nhân đãi. Nằm bên nhau, vợ lão nghiêng người gác chân lên đùi lão thủ thỉ:

-Anh ạ, con chúng mình đứa lớn năm nay là học hết phổ thông. Bây giờ thấy quan chức lắm tiền, và những tay buôn bán…giàu có ai họ cũng cho con qua nước ngoài học. Chả lẽ mình thua họ hay sao? anh cứ để tiền mua nhà đất, sắm vàng, gửi ngân hàng rủi mai này…

Ngưng lại giây lát, nhổm người nhìn thẳng vào mắt chồng, mụ quả quyết:

-Chúng mình phải cho thằng con lớn cùng mấy đứa em nó qua Mỹ học, để có lý do chuyển tiền ra nước ngoài. sau đó sẽ mua nhà và…

Lão ngắt ngang lời vợ:

-Em không thấy mấy đứa con nhà mình, là lũ học dốt lười biếng chỉ thích ăn chơi; cho chúng nó qua đó không ai bảo ban kèm cặp, chúng sẽ tung hoành phá tan hoang tiền của anh gom góp cả đời mấy chốc.

Mụ hôn lên khuôn mặt phinh phính của lão, nhỏ nhẹ:

-Em hỏi anh nhá, tiền của mình nhiều như thế, chúng chơi bời đáng cái lẻ trong đó không? Ở đời chả có cái gì là vĩnh cửu cả. Anh làm quan ăn của đút lót và chia chác lợi tức trong các công ty bao năm nay, chẳng may đổ bể… Hoặc chế độ thay đổi, cái thân còn chả giữ nổi nói chi là tiền của bất chính?

Lão nghiêng người qua ôm vợ, đưa tay vỗ vỗ vào khuôn mặt trét đầy son phấn của mụ, cười giả lả:

-Nhiều người họ bảo: “Làm ăn muốn lên cơ nghiệp và bền lâu hãy về nhà hỏi vợ. Có lẽ đúng, đêm nay anh mới cảm thấy em thông minh đáng yêu thiệt”!

Mụ vợ nhéo vào bụng đầy mỡ của lão cười toe toét:

-Cả đời ở với nhau, bây giờ mới thấy anh khen em!

Dạo này lão cứ hay mất ngủ và đau đầu, mặt hốc hác già sọm đi; chả là từ khi tay giám đốc sở nghỉ hưu, người thế chân là lão. Trăm thứ đều phải qua tay lão xét duyệt. Gay go nhất là một công ty nọ họ xin xét duyệt cho dự án quy hoạch khu vui chơi và nhà cao tầng. Lão thừa hiểu những lý do họ đưa ra, chỉ là núp danh để kinh doanh cả mà thôi. Ngặt một nỗi khu họ xin quy hoạch là khu dân cư đông đúc; có những gia đình thương binh, liệt sĩ và có công với cách mạng, cả chùa chiền và nhà thờ. Đụng tới những gia đình cách mạng và nhất là vấn đề tín ngưỡng tâm linh; dù lão không tin cho lắm nhưng thâm tâm lão cũng cứ sờ sợ những cái vô hình…? Nhưng cú này bên đối tác họ hứa lại quả cả chục phần trăm trên tổng giá trị; bỏ qua thì uổng lắm, mà lão cũng sắp đến tuổi nghỉ hưu rồi. Lão chặc lưỡi, làm cú chót rồi tính sau!

Cuộc họp liên ngành bàn về vấn đề xin quy hoạch giải tỏa khu dân cư; cho công ty họ xin làm khu vui chơi và khu nhà cao tầng diễn ra căng thẳng. Bởi một số đại biểu phân tích rất tỷ mỉ về sự lợi hại khi giải tỏa khu dân cư. Điều quan trọng nhất là đụng chạm tới nhiều gia đình tham gia cách mạng và vấn đề tâm linh là chùa chiền và nhà thờ. Thành thử cuộc họp chẳng đi đến kết quả nào cả.

Mấy chục năm sống ở trên đời, kể từ hồi làm chú liên lạc, đến khi có chức quyền cầm quân đánh nhau bao giờ lão cũng gặp may; ngay cả những lần đơn vị bị bao vây mà lão vẫn luồn lách cùng đơn vị thoát thân. Tới hòa bình làm quan trong hoàn cảnh nào, lão cũng tìm mọi cách để thực hiện thành công ý định. Vậy mà lần này…lão thở dài. Cả đời làm quan gom góp ăn chia đủ kiểu, tính ra còn thua xa một lần này. Phải bằng mọi cách…

Ngồi bên chiếc bàn mặt đá hoa cương, dưới tán cây cổ thụ trong ngôi biệt thự của hắn đã xây gần chục năm nay. Lão cứ uống hết ly rượu ngoại này tới ly rượu khác. Khi đã uống cạn ly rượu cuối, khi mắt đã đổ hoa. Tiếng hai con chim chích chòe trong hai cái lồng, treo trên mấy nhánh cây hót lảnh lót véo von đối đáp nhau. Lão như sực tỉnh dằn mạnh cái ly xuống mặt bàn đá hoa cương, đến nỗi nó vỡ tan tành. Nhặt mấy mảnh ly vỡ đưa ngang mắt ngắm nghía, lão gật gù đầu: “Quyền hành trong tay ta, muốn là được, kẻ nào chống lại sẽ như cái ly này thôi. Thiếu gì cách… Cứ quy chụp cho chống lại chính sách của nhà nước là thành phần phản động thì xong tuốt tuột.”

Những cuộc biểu tình nổ ra của dân mất nhà đất trong khu quy hoạch; mà lão đã tìm mọi cách chạy chọt và lo lót để giải tỏa. Tình hình đã dẫn đến cao trào, bên công an phải vào cuộc để giải tán các cuộc biểu tình của dân mất đất.

Tối nay, lão đang ngồi với vợ tính toán số tiền được lại quả, qua vụ chạy chọt quy hoạch vừa qua. Tiếng chuông điện thoại reo vang, cầm máy lên… À thì ra của ông bạn lính ngày xưa hiện đang là sĩ quan bên ngành cảnh sát cơ động. Chưa kịp hỏi thăm lý do gì, đã nghe giọng bực bội oang oang:

-Các ông cứ ngồi trong phòng máy lạnh mà vẽ quy hoạch; để rồi ăn chia trên mồ hôi nước mắt của dân nghèo. Khi dân bức xúc biểu tình chống đối thì trên kêu tụi tôi phải dẹp. Tai tiếng bên ngành tụi tôi chịu; tiền bạc thì chui vào túi các ông, đếch cần nhân đức gì cả. Nói thẳng các ông chỉ là lũ sâu mọt chui vào chính quyền để đục khoét; chứ yêu nước, lý tưởng cái con khỉ mốc gì?

Lão cúp ngang máy không thèm nghe. Mẹ kiếp! Cái thằng bạn thân nhất từ hồi chiến tranh mà nay nó cũng trở mặt mắng lão. Đâu phải một mình lão quyết được, đủ ban bệ chuyên ngành cả đấy chứ. Hay là… Lão chột dạ…

Máy bay đang lướt trên đường băng, lão cố nhìn qua lỗ cửa kính tròn tròn, thấy cảnh nhà ga cứ lùi dần về phía sau. Người lão hẫng lên, máy bay đang cất cánh khỏi đường băng. Đã bao nhiêu lần lão đi máy bay tại sân bay này; có bao giờ lão để ý tới từng chi tiết cất cánh, hạ cánh của máy bay đâu. Có lẽ lần này là lần ra đi cuối cùng, lòng trắc ẩn trỗi dậy tự tủi cho tấm thân một thời oanh liệt của lão. Sau gần cả năm trời kể từ khi duyệt quy hoạch khu vui chơi và nhà cao tầng. Phần lại quả phải chia tam chia tứ, nhưng trách nhiệm đổ hết lên đầu lão. Với áp lực biểu tình, khiếu kiện của dân mất nhà đất, nên lãnh đạo cấp trên đã thẳng tay kỷ luật cho lão mất chức. Cũng còn là phước tổ chứ quy ra đúng trách nhiệm; và nếu đổ bể vụ ăn hối lộ thì tiền của lão cũng chẳng còn, tấm thân rồi không biết chết trong tù hồi nào. Đã bảo số lão luôn gặp may bởi biết ứng xử nhanh. Số tiền lão ăn chia đành phải ói bớt ra để chạy chọt. Trong lúc còn đang lùm xùm điều tra quy trách nhiệm; vì rút dây thì động rừng nên sự việc cứ cù nhầy. Bạn bè và xếp trên khuyên lão, trong khi chưa quy trách nhiệm rõ ràng thì con đường hay nhất là cao chạy xa bay qua bên Mỹ; có sự bảo lãnh của mấy đứa con mà lão đã bỏ tiền ra đầu tư lo hậu sự ngừa có ngày thất thế. Nghĩ cũng nực cười, ngày xưa lão cầm súng không sợ chết chống Mỹ, tên trùm đế quốc tư bản để giành độc lập cho đất nước? Khi hòa bình biết bao nhiêu người bên phe thua cuộc phải bỏ chạy qua Mỹ lánh nạn. Bây giờ tới lượt lão là kẻ chiến thắng khi xưa, hết thời lộ tẩy cũng phải chạy qua tư bản Mỹ xấu xa mong chạy trốn tội lỗi?

Máy bay đã lên cao, nhà cửa cứ mờ mờ trong mắt lão. Chỉ còn con sông Sài Gòn, dưới ánh nắng ban mai nhìn như con rắn màu vàng nhạt đang uốn lượn nhỏ dần, nhỏ dần. Khi máy bay đã chui vào những đám mây trắng; nhìn qua cửa sổ chỉ là màu trăng trắng đục nhờ. Tủi thân nghĩ về ngày trở về vô vọng, bất chợt hai hàng nước mắt lão cứ tuôn ra.

VỐN TRỜI CHO

Ngà sinh ra ở vùng đồng quê thuần nông nằm cạnh sông Hồng. Lớn lên đã thấu hiểu cảnh đói khổ nhà quê. Bữa cơm luôn luôn là khoai, sắn cõng cơm, thức ăn rặt những rau muống chấm nước tương. Lâu lâu có con cá, con cua… do chị em trong nhà đi mò mẫm ngoài đồng bắt được. Bữa cơm không phải độn khoai sắn, có miếng thịt chỉ có những dịp giỗ chạp, và ba ngày tết. Đang học cuối cấp một, chiến tranh lan tràn; bố phải đi bộ đội vào miền Nam chiến đấu. Hòa bình may mắn còn sống sót trở về với dáng đi cà thọt, vì ông đã bị đạn bắn gãy chân bên trái. Chẳng may vướng bạo bệnh, mẹ Ngà đã bỏ ra đi khi Ngà vừa tròn mười sáu tuổi. Một thân gà trống ông vẫn ở vậy đói no nuôi Ngà và đứa em trai ăn học. Với lý lịch bố là thương binh được ưu tiên; nên Ngà thi và đậu vào một trường đại học trên Hà Nội dù thiếu điểm. Trời phú cho được cái nhan sắc đẹp lại sắc sảo; nên khi còn học ở cấp ba đã nhiều chàng trai, thậm chí cả những ông thầy giáo theo tán tỉnh. Nhưng Ngà đều bĩu môi, vẻ khinh khỉnh. Ngà luôn tự nhủ với sắc đẹp trời cho như thế này, ít ra cũng phải kiếm được tấm chồng có chút địa vị và có nhà cửa trên thành phố. Chứ lấy chồng ở quê để rồi tối ngày lại: “Bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, lo miếng ăn vào miệng còn chẳng xong, nói chi tới nhà cao cửa rộng, ăn sung mặc sướng.

Trong thời gian còn đang ngồi trên ghế giảng đường, có một giảng viên để ý và qua nhiều lần hò hẹn gặp nhau. Ngà cũng xiêu xiêu lòng, đành chặc lưỡi: “Thây kệ, yêu một giáo sư dù có hơn Ngà cả chục tuổi, nhưng được cái lão hứa khi ra trường sẽ chạy cho chân phụ giảng, còn gì bằng được ở thành phố, mà chồng đã có nhà dù là chật chội ở khu tập thể. Dẫu sao cũng còn hơn cả chục lần cảnh sống chen chúc ở trong khu nhà trọ; dăm ba đứa thuê một phòng chục mét vuông, chật chội ngột ngạt mùa hè thì nóng như đổ lửa”.

Ra trường. Lão giáo sư chạy chọt cho Ngà được làm phụ giảng ở trường thật, sau đó là đám cưới. Bạn bè ai cũng phải ghen tỵ về sự may mắn của Ngà. Trò đời có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Mang tiếng là giáo sư chứ thực ra lão ta chỉ là con mọt sách. Ngoài giờ giảng dạy ở trường ra, suốt ngày chỉ cắm đầu vào những cuốn sách. Thành thử gần chục năm dạy học đồng lương ba cọc ba đồng, giỏi cấu véo lắm cũng chỉ sống lây lất qua ngày. Có chồng thì phải sinh con, mới có một đứa con gái mà đã thiếu trước hụt sau. Kinh tế chật vật thì sinh lắm chuyện, nào tiền con bệnh con đau, nào tiền học hành… Có nhẫn nhục cỡ nào rồi cũng sinh ra cãi nhau, mà cái ông chồng mọt sách này thì cứ ỳ ra, thây kệ trăm sự để vợ lo. Đến nước này, thôi thì đành tan vỡ còn sướng hơn là lành lặn trong sự lủng củng khổ sở. Thế là ra tòa ly hôn. Thế là Ngà cũng mang tiếng có một đời chồng. Người xưa có câu: “Gái một con trông mòn con mắt”, quả không sai. Ngà đã đẹp gái, nay có con càng nảy nở những bộ phận trên cơ thể mà trời đã ban cho. Bao trai tơ nhìn vào cứ mê mẩn, theo tán tỉnh. Ngà đều trề môi vì toàn là lũ sáo hót lỗ mồm, thuộc thành phần bạch đinh rỗng tuếch.

Đang trên đường từ trường về nhà, nghe tiếng còi xe hơi bấm phía sau; giật mình Ngà cho xe máy tấp vào lề đường. Chiếc xe hơi cũng đã ngừng phía sau, cánh cửa xe mở ra, một cái đầu phụ nữ thò ra hỏi:

-Có phải Ngà không?

Nhìn kỹ thì ra cô bạn học với Ngà thời đại học tên Thanh. Mừng quá Ngà đi lại phía Thanh, hai người ôm nhau mừng rỡ. Dắt nhau vào một quán nước ven đường. Bây giờ Ngà mới có dịp nhìn kỹ Thanh, không thể hình dung ra cô sinh viên thời nghèo khổ, gày tong gày teo, mà nay đẫy đà, mặt son phấn, y như một bà mệnh phụ phu nhân. Hàn huyên kể lễ mới hay, thì ra nay Thanh đã là cán bộ trưởng phòng một cơ quan lớn của nhà nước; chả là chồng Thanh đang là một ông cục trưởng. Thật thà Ngà hỏi:

-Cậu phấn đấu cách nào mà chưa được chục năm đã lên chức nhanh thế? Chả bù cho mình vẫn lẽo đẽo là cái chân giảng viên đại học, lương ba cọc ba đồng chán lắm cậu ơi.
Thanh vỗ vai Ngà cười:

-Cậu còn thơ ngây về thời cuộc lắm. Ai đời đẹp gái thế này mà đi lấy cái lão mọt sách. Mang tiếng là thày cho oai, trong khi cả đời vẫn nghèo kiết xác. Thời buổi này mà nói chuyện phấn đấu có mà đến già xuống lỗ cũng chả ngóc đầu lên nổi, trong khi không có tiền và phe cánh. Mình là phụ nữ phải biết lợi dụng vào sắc đẹp mà trời ban cho; phải ngoi lên từ cái của trời cho ấy. Bằng mọi cách phải vươn lên ngồi ở cái ghế nào chấm mút được mới có nhà lầu xe hơi; chứ trông vào ba đồng lương có mà cả đời cũng chỉ là dân đen nghèo kiết xác để cho bạn bè, họ hàng họ khinh cho à. Phải bằng mọi cách…
Uống thêm ngụm nước nữa, Thanh ghé tai Ngà thì thầm:

-May là cậu đã nhìn ra vấn đề, ly hôn sớm như vậy là tốt. Phải biết cái lợi thế của phụ nữ là sắc đẹp. Chân tình mà nói thẳng nhé, đàn ông thằng đếch nào thấy gái đẹp mà chả mê như mèo thấy mỡ. Để từ từ mình sẽ giới thiệu cho cậu một chỗ.

Như lời hứa mười ngày sau Thanh dẫn một tay tuổi đời trên bốn mươi tới gặp Ngà. Nghe đâu đang làm to ở một bộ nào đấy. Giới thiệu hai người với nhau xong, Thanh nhìn hai người mỉm cười:

-Hai người cứ vui vẻ với nhau, mình phải đi có việc gấp.

Còn lại hai người, lão ta cứ nhìn chăm chăm vào người Ngà, như muốn ăn tươi nuốt sống. Tuy đã có chồng có con, dày dạn kinh nghiệm trong chuyện chăn gối mà Ngà cũng phải đỏ cả mặt mày. Trong câu chuyện anh ta cũng chẳng giấu giếm gì, nói thẳng đã có vợ và hai đứa con. Chẳng vòng vo lôi thôi gì nhiều, đặt luôn vấn đề sẽ chuyển cho Ngà về cơ quan anh ta; và sắp xếp cho một chức vụ tương xứng. Nhưng Ngà phải là nhân tình của anh ta. Vì theo anh ta thổ lộ tuy có vợ nhưng thực tế tình cảm sứt mẻ đã lâu, có sống chung là vì hai đứa con mà thôi. Vừa thoát khỏi vòng “Kim Cô”, Ngà còn đang ngán ngẩm, nên đành lịch sự xin được có thời gian suy nghĩ.

Vài ngày sau anh ta hẹn Ngà tới một nhà hàng. Trong bữa ăn anh ta uống rượu Tây tì tì như người ta uống nước lã. Ngà có thắc mắc, anh ta nhìn Ngà trong cặp mắt lừ đừ đắm đuối:

-Cái gì cũng vậy, nhất là món bia rượu càng uống càng tăng đô em ạ. Mà cái nghề làm quan như bọn anh không uống không được ấy chứ. Thú thật với em, thời buổi làm ăn kinh tế thị trường này, chả có ma nào giao tiếp làm ăn mà nói nước bọt suông được đâu.

Vừa nói anh ta vừa kéo Ngà ngả vào lòng, hôn lấy hôn để. Bất chấp khách hàng đang ăn đông nghịt trong nhà hàng. Hơi thở anh ta nặc nồng mùi rượu, né mặt qua bên Ngà nhấm nhẳng:

-Này, bộ ngày nào mấy anh cũng ăn nhậu và gái gú thế này hả? Nhưng em nói trước vì anh đã có gia đình rồi, nên mọi việc tình cảm giữa hai người phải có khoảng cách và kín đáo; kẻo đổ bể ra làm ảnh hưởng tới hạnh phúc, và đường công danh của anh.

Liếc mắt nhếch mép cười, anh ta kéo mạnh Ngà ghé miệng vào sát lỗ tai:

-Nghề làm “đầy tớ” cho dân bây giờ, ăn nhậu là chuyện hàng ngày như ăn cơm. Còn chuyện bồ bịch thử hỏi có thằng đếch nào mà tử tế đâu? Điều lệ đảng ghi một vợ một chồng, léng phéng là khai trừ. Nhưng thực tế cả mấy ông to chóp bu khi nằm xuống mới lòi ra lắm vợ nhiều con. Dân thắc mắc thì họ đổ thừa do hoàn cảnh… Đấy như nghề sư phạm của em người ta phải sống mẫu mực cho đúng nghĩa làm thầy. Vậy mà…
Ngưng lại uống thêm ly rượu nữa, há mồm đưa miếng thịt bò Cô Bê Nhật Bản nướng vào mồm nhai ngấu nghiến, mắt vẫn không rời khỏi người Ngà, hắn ta nhếch mép cười:
-Báo đài và mạng xã hội dạo này la rùm beng về vụ hiệu trưởng làm tình với học sinh, còn giới thiệu cho quan chức nữa. Đấy em xem thực tế được mấy người tử tế? Còn cái chuyện của chúng mình em khỏi ra điều kiện, tất nhiên anh phải biết giữ cái ghế của anh vì nó đang sinh lộc mà.

Ăn uống thỏa thê, vì mục đích anh ta chuốc cho Ngà say khướt; dìu ra xe và rồi chở thẳng vào khách sạn. Khi anh ta kéo cánh cửa phòng đóng lại, liền nhảy bổ vào vồ lấy Ngà cứ như cọp đói vớ được nai tơ. Hết hôn hít lần mò khắp cơ thể, chẳng còn kịp đợi đối tác tự nguyện cởi đồ. Hai tay anh ta cứ là bứt phăng hết các nút áo, quần ra. Ngà cằn nhằn, cười hềnh hệch anh ta quăng mớ quần áo vừa lột của Ngà xuống nền nhà:

-Ba cái đồ vớ vẩn của em đáng mấy đồng bạc, thích thì anh mua cho một lúc cả chục bộ. Bọn này chỉ cần phết phẩy một cái là tiêu xài mòn cả tay, ăn chơi mệt nghỉ.
Ngà đẩy khuôn mặt đầy mùi rượu của anh ta đang áp sát vào mặt mình để thở, vặn hỏi:

-Thế xà xẻo vậy mà các anh không sợ thanh tra? Anh ta cười khục khặc:

-Em còn nai tơ lắm, thời nay chả thằng đếch nào xà xẻo mà ăn trọn cả, phải chia tam chia tứ hết đấy. Trò đời rút dây thì động tới rừng; nên dẫu có lộ ra vẫn cứ nhởn nhơ mà.

Một lần có cuộc họp liên bộ, Ngà được cử đi họp thay cho tay trưởng phòng đang công tác ở xa. Hôm đó Ngà mặc chiếc áo dài mầu xanh lam may theo kiểu cách tân. Chiếc cổ áo được khoét theo hình trái tim sâu hoắn; để hở ra phần trên của cặp vú mây mẩy, trắng nõn nà mà trời đã phú cho. Với mái tóc thời trang bồng bềnh, khi bước vào phòng họp; những cặp mắt nhất là mấy lão đàn ông từ trẻ tới sồn sồn cứ đổ dồn nhìn Ngà. Kệ, Ngà cứ tự nhiên đi lại dãy ghế thứ hai thấy còn trống. Cúi đầu chào người đàn ông trung niên ngồi phía ngoài, xin phép vào ngồi bên cạnh phía trong. Tay này lịch sự ngồi vào phía trong nhường ghế cho Ngà. Gần như cả cuộc họp tay trung niên cứ tỷ tê hỏi chuyện, thì ra cũng là một cán bộ đang làm ở một bộ có tiếng là chấm mút được. Chưa hiểu về nhau tý gì, vậy mà tan họp tay trung niên cứ một mực mời Ngà đi ăn cái gì đấy. Chối chẳng xong, Ngà chặc lưỡi: “Kệ, mất mát gì mình đang là con người tự do mà – Sợ chi!”

Khi ngồi ăn với nhau, tay này cứ tỉ tê hỏi thăm hoàn cảnh gia đình; lật ngửa bài Ngà cũng chẳng giấu giếm gì. Lão lại nhìn Ngà đắm đuối trong hơi men, nói xa nói gần. Ngà đã quá hiểu trong chốn quan trường, bản chất đàn ông phần nhiều thấy gái đẹp là y rằng cứ như mèo thấy mỡ. Làm bộ ngây thơ Ngà hỏi:

-Làm cán bộ đến chức vụ như anh, đã trải qua bao nhiêu trường lớp tôi rèn về lý tưởng và đạo đức cách mạng, anh không sợ phạm vào điều lệ đảng à?

Lão đắm đuối nhìn Ngà bằng hai cặp mắt lừ đừ vì say rượu:

-Trên lý thuyết là như vậy, nhưng thực tế thời nay đúng như câu thành ngữ: “ban ngày quan lớn như thần…”. Toàn những là khoác bên ngoài cái vỏ đạo đức giả mà thôi.

Đưa ly rượu ngoại lên bảo Ngà phải cụng ly, đã ngấm hơi men mặt Ngà hồng tươi; cặp mắt dê cụ của tay này càng đắm đuối. Gật gù đầu anh ta thủng thẳng:

-Cái chỗ em làm chẳng kiếm chác được bao nhiêu đâu; nếu em đồng ý… với anh. Anh hứa bằng mọi cách sẽ chuyển em qua bên chỗ anh. Nói thật bên này vừa kiếm được tiền nhiều mà tương lai còn leo lên cấp lãnh đạo to. Chứ chỗ em chỉ làm kinh tế, giàu có mà không có chức quyền thì làm cái đếch gì hả? Em không thấy mấy tay có chức quyền đấy à, đi đâu cũng có người chạy theo bảo vệ, quan chức đón tiếp thì xun xoe; thậm chí mưa phùn, hoặc trời có chút nắng cũng có người giương ô lên che đấy à. Thế mới là làm quan chứ!

Cái ngày Ngà làm lễ thượng thọ 80 tuổi cho bố, cả cái xóm Bãi xôn xao và nhộn nhạo hẳn lên; vì hàng đoàn xe du lịch đủ các loại đậu từ nhà Ngà tới tận cuối xóm vẫn chưa hết. Thậm chí có nhiều xe còn phải vào đậu nhờ trong sân nhà dân. Người lớn thì cứ nhìn đoàn xe bình phẩm, so sánh khen chê đủ kiểu. Có bà cứ chặc lưỡi:

-Đẻ con ra như vậy mới đáng chứ, mới mát cái L… chứ! Cần chi phải đẻ con trai hả, nhiều ông mãnh chỉ ăn và phá của, đàn bà như cô này chấp cả chục những thằng đàn ông vô tích sự.

Có người đã từng học chung với Ngà thời phổ thông; cũng học đại học làm ở cơ quan nhà nước, chỉ lắc đầu nhếch mép cười khểnh:

-Nói chung mấy bà chỉ nhìn bề ngoài thôi, chứ sức học của nó ngày xưa còn dưới dạng trung bình. Chẳng qua nhờ…

Ông ta bỏ lửng câu nói, nhìn mấy bà đang chỉ trỏ:

-Các bà không thấy nó ngót nghét năm mươi tuổi mà còn xinh thế kia, hỏi làm sao mà không lên như diều gặp gió?

Lũ trẻ con trong xóm được một phen thỏa mãn cặp mắt nhìn. Thậm chí còn cãi nhau chí chóe về cái xe này sang trọng và nhiều tiền hơn cái xe kia. Hai tay chúng cứ sờ mó hết chiếc xe này đến chiếc xe khác, mà cả đời chúng có nằm mơ cũng chả bao giờ có dịp như ngày hôm nay.

Ngôi biệt thự rộng gần hai trăm mét vuông một trệt, một tầng lầu nửa cổ nửa kim nổi hẳn lên trong cái xóm Bãi này. Cộng với khu vườn rộng cả ngàn mét vuông đất, mà Ngà đã mua của mấy nhà bên cạnh cho dù giá cả cao hơn chỗ khác gấp vài lần. Đã được Ngà mướn kỹ sư thiết kế có cả hồ bơi, hòn non bộ, trồng các loại cây cảnh đắt tiền… Hôm nay bàn ghế sắp từ trong nhà đến ngoài sân. Mới chín giờ sáng mà khách khứa đã đến chật nhà, nhìn cách đi đứng và ăn nói, người ta cũng thừa biết toàn là những ông bà quyền cao chức trọng.

Tấm phông mừng thượng thọ bố, Ngà đã mướn người làm trên thành phố mang về. Trước ngày lễ, Ngà đã cho người căng lên phía bức tường cuối phòng khách rộng gần cả trăm mét vuông. Khi tấm phông căng lên đập ngay vào mắt người nhìn: Chính giữa trên cùng có hàng chữ đỏ: Lễ mừng thượng thọ, bên trên góc trái là cành đào trổ hoa chỉa cành qua, bên trên góc bên phải là cành mai đang trổ hoa cũng chĩa cành vào. Hai bên là câu đối: Phúc – như – Đông – Hải, Thọ – tỷ – Nam – Sơn. Chính giữa tấm phông là họ tên ông cụ và tuổi, bằng màu vàng nổi bật trên phông nền màu đỏ. Ngay dưới giữa tấm phông được kê chiếc ghế, đã được Ngà thuê thợ đóng bằng loại gỗ quý đắt tiền. Giữa mặt ghế được chạm trổ mấy chữ: Phúc – Lộc – Thọ bằng ốc xà cừ, riêng hai tay cầm được chạm hai con rồng thò đầu ra phía trước. Trước mặt chiếc ghế được kê một chiếc bàn phủ vải đỏ; để nhận quà của con cháu và quan khách.

Khoảng mười giờ lễ thượng thọ của ông cụ được chính thức tuyên bố. Ông cụ nay mắt đã mờ, tai đã nghễnh ngãng được mặc chiếc áo màu đỏ mà hội người cao tuổi đã trao tặng cho cách đây không lâu. Dưới Ngà còn có một em trai, nhờ Ngà chạy chọt gửi gấm, dẫu học hành dốt và sợ học như sợ cọp nên dang dở cấp ba. Mới có mười mấy năm nay cũng đã leo lên tới chức trưởng phòng của một sở tiếng tăm, thậm chí còn có trong tay mấy bằng đại học và trên đại học. Xét về tôn ti trật tự thì người em đứng ra làm lễ thượng thọ cho ông cụ. Nhưng trên thực tế trăm sự, từ khâu tổ chức, khách mời… đều một tay Ngà sắp xếp lo toan.

Chú em Ngà thay mặt gia đình, trịnh trọng lên đọc bài phát biểu mừng thượng thọ cho ông cụ, mà Ngà đã nhờ người viết sẵn. Trước tiên là phần kể lể công ơn trời bể sinh thành và công giáo dưỡng của ông cụ đã nuôi dưỡng hai người con; và do sự phấn đấu không ngừng của bản thân, mà nay đã trở thành những cán bộ cấp cao của chế độ. Sau là những lời cảm ơn họ hàng nội, ngoại cùng quý quan khách đã bớt chút thời gian vàng ngọc, tới dự lễ mừng thượng thọ cụ ông tròn tám mươi tuổi.

Ngà là người đầu tiên lên mừng thượng thọ ông cụ bằng bức tranh: Phúc – Lộc – Thọ, từ hình ba ông tiên đến hàng chữ đều bằng vàng y. Kế đến là chú em mừng thượng thọ cụ bằng bức tranh cây mai: Ngũ – Phúc, tất cả thân và các cánh hoa mai đều bằng vàng y. Kế đến là quà mừng của họ hàng và các quan khách. Phần nhiều bên họ nội, ngoại chỉ mừng bao thư. Riêng phần của các quan khách, người thì mừng thọ bằng bức tranh Tứ – Quý, bức tranh hoa sen, bức tranh ba ông Tam – Đa tất cả đều mạ vàng y… Khi con cháu, quan khách lên tặng đồ, bao thư tiền mừng thượng thọ ông cụ, các loại máy quay phim, điện thoại thông minh chớp đèn nhoang nhoáng. Chả mấy chốc chiếc bàn kê trước mặt ông cụ đã đầy những tranh và tượng phần nhiều đều là bằng vàng y và đồ mạ vàng. Kế bên là một chồng bao thư mà họ hàng, quan khách mừng thượng thọ cụ. Khi chủ nhà mời họ hàng, quan khách ra dự tiệc, phải mấy người bưng đồ mừng đem cất vào nhà trong mới hết.

Hết giờ làm việc buổi chiều, Ngà lái chiếc xe hơi đời mới mua chưa được tròn năm. Đang thả hồn theo tiếng nhạc phát ra từ mấy cái loa trong xe. Từ phía sau tiếng còi xe hơi bóp inh ỏi, Ngà đã lách sang bên nhưng kèn xe vẫn kêu. Bèn tấp xe vào sát lề đường, hạ cửa kính thò đầu ra Ngà nhìn lại phía sau. Cửa kính xe sau cũng thấy một cái đầu thò ra cùng tiếng gọi rối rít:

-Ngà… Ngà!

Mở cửa Ngà bước ra khỏi xe, người đàn ông cũng vội vàng bước ra đi lại phía Ngà. Cố moi trong trí nhớ, Ngà chợt: À… à… Cái lão cách đây hơn hai chục năm được Thanh bạn Ngà giới thiệu. Lão đã lôi Ngà từ một giảng viên đại học về chỗ lão. Mới đó mà khuôn mặt lão đã già khằn, da nhăn nheo… Cực chẳng đã Ngà phải chiều lòng ân nhân cũ; vào một quán nước bên đường cạnh một hồ nước.

Khi đã yên vị trên ghế của quán, vừa uống nước lão ta cứ tấm tắc khen Ngà trẻ đẹp mãi không già so với thời gian. Lão không thể ngờ Ngà đi xe hơi đắt tiền và nhìn dáng người sang trọng thế này. Hỏi ra công việc làm ăn của lão, xụ mặt thở dài lão kể lể. Do một lần xây dựng một nhà máy, ăn chia bớt xén vật tư nhiều quá, mấy căn nhà chưa bàn giao đã sụp đổ. Thanh tra về, lão phải chạy vạy lo lót thâm hụt cả vào tiền nhà xà xẻo ki cóp bao nhiêu năm. Nên may mắn không phải vào nhà đá, mà bị thuyên chuyển công tác vào chức vụ mới chỉ có ngồi chơi xơi nước. Cúi xuống ra vẽ suy nghĩ, lão ngẩng đầu lên nhìn Ngà:

-Ngày xưa anh đã đưa Ngà về chỗ anh, bây giờ anh lỡ… Nghe nói Ngà nay đã lên tới chức ngang hàng cục trưởng, liệu có cách nào giúp anh được không, cũng như ngày xưa anh giúp Ngà ấy?

Đâu rồi cái giọng ăn nói trịch thượng ngày xưa, lão cứ nhìn Ngà như van lơn. Chẳng chút chạnh lòng vì Ngà đã quá hiểu bản chất của hắn. Nhìn thẳng vào mắt hắn, Ngà nghiêm mặt:

-Ngày trước xét cho cùng anh cũng chả tử tế gì với tôi. Chẳng qua anh chỉ đam mê cái sắc đẹp mà trời đã ban cho tôi; trong khi anh đã có vợ con và không biết bao nhiêu cô gái đã qua tay anh. Tôi nghĩ rằng đó chẳng qua chỉ là một cuộc trao đổi như buôn bán mà thôi.

Nhìn mông lung ra hồ nước nằm bên hông quán, Ngà chậm rãi:

-Mỗi người trong xã hội này đều có nhiều cách để leo lên từng nấc thang danh vọng.

Nghe tới đây mặt lão tím sầm lại, nhìn Ngà đay nghiến:

-Như cô chẳng hạn, nếu không nhờ có sắc đẹp trời ban cho thì liệu…?

Ngà quay ngoắt lại trừng mắt nhìn lão:

-Tôi vị tình với anh ngày xưa… mà ghé vào đây. Anh nên nhớ bây giờ tôi không phải là cô giáo Ngà cách đây cả chục năm.

Nghe tới đây, biết chẳng còn gì có thể nhờ vả lại Ngà; lão tức giận đứng dậy chỉ tay vào mặt Ngà, quát lên những tiếng đứt quãng:

-Mày chẳng qua… chỉ là con ca ve… chứ tử tế gì?!

Cơn tức giận trào lên vì bị xúc phạm. Ngà đứng lên chỉ thẳng tay vào mặt lão:

-Tao có là con ca ve cũng còn có vốn trời ban cho; còn lũ chúng mày có cái gì? Chẳng qua leo lên những cái ghế danh vọng bằng những thủ đoạn lưu manh, để mà đục khoét chứ tử tế gì.

Ngà đứng phắt dậy phủi mạnh tay vào vạt áo dài, đùng đùng bỏ ra xe. Mở cửa xe ra vừa lách người ngồi vào ghế, tay trái kéo mạnh cánh cửa xe đóng: Rầm! Tay phải Ngà mở máy xe, nhấn ga chạy thẳng không thèm nhìn lại.

(Còn tiếp phần 2)

V.V.T