Truyện ngắn “Xóm vui ngày nắng”

495

Tốp tân binh gồm tôi, Cang, Lương được dẫn về ở nhờ gia đình ông Bộ chủ nhiệm hợp tác xã. Ngôi nhà ba gian hai chái có mỗi ba người. Hai ông bà ở một chái đầu hồi, chái bên kia là của chị Luyến, cô con dâu. Ba gian giữa ông Bộ tháo các cánh cửa bức bàn xuống, làm phản cho lính mới nằm.

Bộ đội về làng Vực, căn nhà vắng nay thêm người trẻ đã vui trở lại. Con trai ông, anh Thế chồng chị Luyến cũng đi bộ đội chiến đấu trong Nam. Thống nhất đất nước đã mấy năm, những người lính giải ngũ đã về làng nhưng anh Thế vẫn bặt vô âm tín. Thậm chí, một lá thư cũng không thấy gửi.

Đơn vị huấn luyện đợt này toàn lính Hà Nội. Thanh niên Thủ đô thông minh tài hoa nhưng ngang tàng ương bướng khiến cán bộ khung nhiều phen vất vả. Thằng Lương đẹp trai như tài tử Deyanov trong phim Trên từng cây số, hát hay mê mẩn nhưng nghịch ngợm trời gầm. Cang gõ bát sắt theo nhịp ca khúc Lương đang hát, tuyên bố, nghe thằng này hát, chị em xã viên sẽ rụng tim tập thể.

Một tối muộn sau giờ sinh hoạt đại đội, Lương kéo tôi lại, lào thào:

– Về ngủ sớm buồn chết mẹ! Ở lại ăn oản đã.

– Oản đâu ra mày?

– Im lặng tuyệt đối. Thấy tao làm gì làm theo đúng thế, nghe chưa!

Lương dẫn tôi luồn ra sau lán các em tổ bếp nuôi quân. Hai thằng ghé mắt qua khe liếp đan nứa. Bên trong, dưới ánh đèn bão vàng vọt, các cô gái đang thay áo lót chuẩn bị đi ngủ. Lương bấm tôi kéo ra sau bóng tối kho gạo liền kề, thì thào phân công:

– Tao bò vào trước, mày sau. Phần mày em Lành phản đầu tiên. Tao phản thứ hai em Lụa, rõ chưa.

– Liều quá đi mày!

– Oản bự cả đấy! Không liều vào mặt trận chết, lại hối.

– Cửa chốt mà. Họ làm ầm lên thì chạy đằng nào?

– Thằng ngẫn! Cửa không chốt và không kêu đâu. Tao thử rồi.

Phía bên kia sân lúa hợp tác xã là kho hậu cần đại đội. Bóng người gác ca đầu đi lại quanh quẩn đầu hồi dưới ánh trăng mờ. Súng không đạn, gác lại chọn chỗ sáng, đúng là lính mới tò te. Rạo rực bầu máu nóng tuổi trẻ, tôi hồi hộp lặng lẽ bò theo Lương trở lại cửa lán nuôi quân. Quả nhiên cánh liếp không chốt, chỉ lẹt sẹt tiếng quệt nền đất khe khẽ. Trong bóng tối nhờ nhờ, từ chiếc đèn khêu nhỏ bấc, trên tấm phản đầu, tôi thấy Lành đang nghiêng úp vào trong bỗng trở mình nằm ngửa. Ngực Lành phập phồng. Tiếng thở đều đều trong mùng, chừng đã sâu giấc.

Tình huống quá thuận lợi. Lương lựa vén diềm mùng. Không gian đông cứng lại trong sự im lặng đến nghẹt thở. Chỉ còn tiếng dế đều đều rả rích ngoài hè.

Lương ngoắc tay nhẹ ra hiệu. Tôi bò lại, thoáng giật mình cảm giác Lành còn thức. Bên kia, Lương đã tiếp cận tới phản Lụa nằm. Tấm mùng lung lay nhè nhẹ. Thời gian chết lặng, đong đếm bằng nhịp tim thình thịch dội như trống làng đang khát khao đập trong những lồng ngực trẻ.

Có tiếng hô mật khẩu đổi ca gác bên kia sân kho.

– Trộm, trộm…! – Một cô gái mé phản trong cùng chợt hốt hoảng kêu ré lên thất thanh.

Lương vòng sang, giật kéo tôi bung cửa chạy biến. Xóm ngoài xôn xao, ong óc dậy tiếng chó sủa. Tiếng còi báo động roét roét. Hai thằng hổn hển chạy về đến nhà. Chị Luyến vừa tắm xong, đang ngồi hong tóc bên bậc cổng hỏi khẽ:

– Các chú đi đâu về muộn thế?

– Chúng em sang thằng bạn cùng phố đóng bên xóm Đông chơi.

Lương trả lời quấy quá. Hai đứa vọt vào phản mình mắc vội mùng, nằm im thin thít giả vờ ngủ. Ngoài ngõ, tiếng chân người chạy thình thịch. Ánh đèn pin sáng trắng lia loang loáng cùng tiếng anh Liên hỏi gắt:

– Tổ ba người có mặt trong nhà không Luyến?

– Chúng nó mệt. Ngáy khò từ lâu rồi! – Chị Luyến trả lời tỉnh bơ.

Trung đội trưởng cùng Hạ sĩ Liên vẫn sục vào nhà kiểm tra, soi đèn pin tận mặt, đếm đủ từng người lính trong giường rồi mới sang nhà khác. Chị Luyến ra chốt cổng trở vào, vén mùng cốc vào đầu mỗi đứa một phát đau điếng. Tấm cửa buồng rên lên ken két trong ổ mộng khô. Chị vào buồng đi ngủ, nhưng hương sả, hương bồ kết trên mái tóc dày nặng của chị không ngủ, cứ thao thức lẩn quất mãi trong đêm.

Hôm sau, câu chuyện trộm đột nhập lán nữ nuôi quân tối qua loang ra khắp đại đội. Hết kêu gọi tự giác đến tường trình, kiểm thảo sinh hoạt vẫn không tìm được ra thủ phạm. Quân tư trang không mất gì, đến ngay cả bị hại cũng không biết ai do trời tối, lại vẫn vui vẻ nên chuyện dần lắng xuống. Chậu cơm có tổ ba người của chúng tôi kể từ hôm đó bao giờ cũng được cấp thêm một miếng cháy to giòn mỗi khi Lành hay Lụa đứng chia cơm.

Ngày lại ngày trôi qua. Chiếc loa truyền thanh của xã ông Bộ cho treo trên cây xoan trước cổng nhà, sau các bản tin vẫn hát: Nghe không anh mùa xuân, về cùng tin chiến thắng, xóm vui trong ngày nắng, như gọi đồng chín vàng…

Tin chiến thắng về đã lâu, lúa đã vàng đồng mấy bận, nhưng anh Thế mãi không thấy về khiến ông bà ngày thêm sốt ruột. Các buổi giao lưu văn nghệ với chi đoàn địa phương hồi làng mới đón tân binh, chị Luyến vẫn song ca với thằng Lương bài hát này. Sân kho hợp tác biến thành sân khấu, dát bạc dưới ánh trăng vằng vặc đêm rằm. Trong nhịp đàn guitar lắt lẻo của tôi, hai chị em giao lưu tình cảm, ăn ý đưa đẩy giọng nam trầm, giọng nữ thanh bắt nhau rất ngọt.

Có một tin đồn loang ra không rõ từ đâu, rằng anh Thế đã mất tích trong một trận đánh. Tử trận, hi sinh đã đành một lẽ. Đau đớn xót xa một lần, rồi cũng sẽ dần nguôi, rồi có thể tính tiếp bước tương lai. Nhưng sự mất tích như chiếc thòng lọng vô hình, tròng hờ vào số phận những người thân đang phấp phỏng ngóng chờ trong vô vọng, khiến người ta chẳng thể làm gì. Không thấy chị Luyến hát nữa. Chị buồn.

Nỗi rạo rực chờ mong của một người đàn bà trẻ đầy sung mãn ngày thêm mòn mỏi, mà tiếng loa nén vẫn oang oang mãi đến vô tình bài hát cũ hôm nào. Chị rón rén dậy ra sân kho đi làm sớm hơn, như muốn tránh cánh lính trẻ phổng phao ngồng ngỗng đang vô tư ngủ trên các tấm phản gian ngoài. Nghe tiếng xoay “két..két…” lỗ mộng tấm cửa, tôi không biết chị đã vào buồng đi ngủ hay đã trở dậy sớm. Sau tiếng két, cửa sáng một lát là tiếng rít thuốc lào sòng sọc ngoài sân của ông Bộ. Ông ngồi chờ đóng cổng cho con dâu, lần nào cũng độc một câu quen thuộc, lí nhí như người đang mắc lỗi:

– Thầy mới lên quân sự tỉnh, vẫn chửa tin gì con ạ!

– Thầy yếu rồi. Đừng đạp xe lên nữa, khổ ra!

– Thầy u xin lỗi con!

– Thầy u làm gì có lỗi. Còn sống anh ấy khắc tìm về!

Tiếng chị Luyến gắt nhẹ, như có cả sự rấm rứt ở bên trong. Tiếng dép nhựa chị vừa khuất sau cổng là tiếng còi báo thức rộn rã của Hạ sĩ Liên tiểu đội trưởng tiếp nối. Hằng ngày trôi qua đều đều như vậy, từ bài bắn đạn thật bia số 4 đến bia “thằng còm” số 7 rách áo ăn tiền.

Cuối thu. Lúa vàng ngợp đồng dưới bầu trời xanh lơ lắc. Bộ đội cuối kì huấn luyện, đổ ra đồng gặt lúa giúp dân. Lũ chó cũng bận rộn theo chủ, ngồi chồm hỗm trên bờ ruộng rình chuột đồng, hoặc hồng hộc đuổi theo đoàn xe cải tiến lọc cọc kéo dọc bờ mương về sân kho. Đàn chèo bẻo như những nốt nhạc đen cao thấp, theo mùa về đậu kín đường dây trung thế băng ngang cánh đồng. Chúng rít lên chèng chẹc, bám từng thửa ruộng đã gặt quang để săn tìm nhái con, châu chấu. Không gian thơm ngậy mùi muồm muỗm nướng. Lắc rắc nhẹ tan trong gió heo may lạnh thổi cuối chiều, là tiếng nổ những quả muồng khô sau một ngày tàn phơi cơn nắng nỏ.

Nhưng làng xóm chẳng được yên lâu. Tin chiến sự biên giới Tây Nam dội về ngày càng nóng bỏng giữa mùa vụ bời bời. Bà Duật hàng xóm kế rào nhà ông Bộ nhận tin báo tử của anh con trai ngay trên ruộng gặt. Bà buông xõng đon lúa đang bó, ngồi phệt xuống, ngất xỉu liền bên bờ mương. Mọi người hô hoán cấp cứu, vực bà lên xe cải tiến đưa về trạm y tế xã.

Người từ cuộc chiến trước còn chưa kịp về, người của cuộc chiến sau đã vội ra đi. Còi tàu hỏa ngoài ga Bình Lục loang dài trong gió thu như lời chào vĩnh biệt. Hạ sĩ Liên quăng liềm, chùi đôi tay dính bùn vào hai ống quần, thét lạc giọng:

– Tiểu đội… Nghiêm…! Phút mặc niệm… Bắt đầu!

Nắng quái buổi chiều hôm đổ dài bóng lính đứng lặng im phăng phắc giữa cánh đồng, tưởng nhớ người anh không quen biết vừa tử trận. Trên không gian cao tít, một đàn sếu trắng tinh xếp hình chữ V đang chớp cánh. Tiếng loài chim di cư lảnh lót gọi nhau, xao xác cả bầu trời. Gió bấc hiu hiu sếu kêu trời rét. Chúng sẽ bay xuyên đêm về phương Nam nắng ấm. Cả đơn vị mình nữa, chắc chỉ xong vụ gặt này là lên tàu vào mặt trận.

Mọi người ngừng tay liềm, ngẩn ngơ dõi theo đàn sếu bay mỗi lúc một xa. tôi thấy chị Luyến thẫn thờ đứng cạnh thằng Lương, nhìn nó với ánh mắt rất lạ. Một cái nhìn xót xa sâu thăm thẳm như thấu hiểu, như lòng trời thu cao lộng đang dựng hun hút ở trên đầu.

Ngày tháng mười chưa cười đã tối. Bóng tối sà xuống mâm cơm quân dân đoàn kết ngày mùa ăn muộn. Chiếc đèn chai soi tỏ đĩa châu chấu rang lá chanh và tép mài mại kho khế. Chị Luyến ngồi đầu nồi. Tiếng máy tuốt lúa đang chạy ù ù không át được tiếng hờ con day dứt vọng sang từ bên nhà hàng xóm: Lá vàng còn ở trên cây. Lá xanh rụng xuống trời hay hỡi trời…! Xã chưa tổ chức lễ truy điệu nên nhà bà Duật chưa phát tang, chỉ có tiếng hờ dai dẳng khàn khàn, nghe lúc được lúc mất.

Thằng Lương mở nút lá chuối, rót chai rượu ngang ra các chén. Vài ba chén con tôi đã thấy nóng mặt, nhưng ông Bộ vẫn ngồi im như tượng. Lương rót chén nào ông uống cạn chén đó. Tiếng loa nén lại sọt sẹt, rồi đoạn nhạc đệm của bài hát đợi chờ quen thuộc cất lên:

Nghe không anh mùa xuân, về cùng tin chiến thắng, xóm vui trong ngày nắng, như gọi đồng chín vàng. Ngày anh đi cách xa, khuây sao được nỗi nhớ, thương nhau dù cách trở, vẫn trọn đời tin nhau….

Xóm làng buồn tê tái. Ông Bộ thở dài, làm một hơi cạn chén rượu cuối, đứng dậy nói trống không:

– Tôi sang anh cu Soạn thông tin, bảo mai mắc cái loa ra chỗ khác.

Bà Bộ cời cời lùa đũa nốt bát cơm vơi, tong tả ra bể nước mưa rồi chạy vội sang nhà Duật. Chị Luyến ngoảnh mặt vào bóng tối, giấu vội dòng nước mắt thoáng lấp lánh trong ánh đèn chai. Cang huých nhẹ tay tôi, hất hàm ra hiệu. Hai đứa liếc sang, thấy thằng Lương đang nhìn chị Luyến. Khuôn mặt đẹp trai của nó bỗng già đanh, ẩn đầy xa xót, như gương mặt một gã đàn ông vụt trưởng thành.

Đêm cuối thu lạnh. Chiếc chăn chiên cá nhân dệt sợi Nam Định không đủ giữ nhiệt. Tổ ba người ghép phản chung mùng, nằm sát nhau cho ấm. Ngày mùa mệt mỏi, trung đội được nghỉ sinh hoạt tối. Tôi rủ Cang đi nằm sớm. Thằng Lương chưa muốn nằm, đi lại lục sục, hỏi chỗ tôi cất chai dầu luyn. Nó mang khẩu AK ra ngoài thềm dạy chị Luyến cách tháo lắp, lau súng. Trong đêm yên tĩnh, tiếng khóc bên nhà bà Duật vọng sang càng rõ, giờ lại nghe thêm cả tiếng khóc bà Bộ. Tôi, Cang hai thằng trùm chăn kín đầu thao thức. Không lẽ hai người mẹ kia sẽ khóc hết đêm nay.

Gió bấc đầu mùa hun hút thổi ngày chuyển quân vào mặt trận. Ông Bộ thịt con gà trống hoa, đặt lên ban thờ lầm rầm khấn. Các con đi một về mười, đi tươi về tốt. Mùi khói hương bài quện hương bưởi vườn sau quyến luyến, trang nghiêm lòng thành. Bà Bộ thổi nồi cơm nếp thật to cho mấy đứa ăn. Lương trưng dụng hết chăn chiên tổ ba người, để lại cho gia đình, bảo chúng con vào trong đó khí hậu nóng, chăn đệm chẳng còn cần thiết nữa.

Có một sự cố nhỏ xảy ra vào hôm trước: Các cô gái tổ nuôi quân nhất loạt đứng ra tố cáo với đại đội, rằng tôi, Lương chính là những kẻ trộm đêm mò vào lán nữ. Lời tố cáo muộn màng không thể làm thay đổi mệnh lệnh chiến đấu. Lương với tôi vẫn hành quân vào mặt trận cùng đơn vị, chỉ không được phong quân hàm binh nhất như các anh em khác mà thôi.

Kẻng báo động di chuyển thôi thúc. Toàn đại đội tập trung tại sân kho hợp tác. Lành, Lụa lao vào ôm riết từ biệt tôi, Lương. Hai cô gái khóc òa xin lỗi, bảo chúng em làm thế chẳng qua vì muốn các anh bị kỉ luật, phải giữ lại. Xin hãy tha thứ cho chúng em. Bà Duật tay run run xách nải chuối chín, vừa lăn vào túm áo từng đứa, vừa gào lên tru tréo tên con mình. Y tế xã phải len vào gỡ tay, dìu đưa bà ra.

Giờ phút chia xa đã đến. Giật lên tiếng đại đội trưởng hô dõng dạc:

– Đại đội hành quân một hàng dọc… Hướng hành quân ga Bình Lục! Tốc độ hành quân 4 km một giờ! Bước đều… bước!

Rặng điền thanh bờ mương ngả nghiêng trong gió bấc, rì rào vẫy chào đưa tiễn. Tiếng quân đi rầm rập theo nhịp bài ca hành khúc cất lên từ trung đội đi đầu. Vừng đông đã hửng sáng. Núi non xanh ngàn trùng xa. Tổ quốc bao la hiền hòa… Tôi nghển cổ ngoái lại, thấy chị Luyến thẫn thờ đứng tít vòng ngoài.

***

Tổ ba người được bổ sung vào trung đội trinh sát một đơn vị chiến đấu. May mắn, chúng tôi vẫn được ở cùng nhau. Đêm dẫn tiểu đoàn luồn sâu, tới ngã ba cây tung lối vào phum Tà Chek, trung đội trinh sát dính ổ phục kích của địch. Trái B40 đầu tiên chớp nổ gần, tiếp theo là một trận mưa xối xả đạn đại liên. Lương gục xuống, dập nát hai đùi. Trung đội nằm tại chỗ nổ súng, tổ chức đánh trả.

Tôi, Cang trườn lên kéo Lương trở lui. Cây tung với các bạnh rễ khổng lồ đã che chở cho chúng tôi. Khi các đại đội bộ binh tràn lên áp đảo đẩy lui địch thì Lương đã kiệt sức vì mất máu. Giây lát, Lương tỉnh lại, nói rành rẽ:

– Trong ba lô tao có cuốn sổ với xấp vải ka-tê. Chúng mày còn về được thì phải qua thăm bố Bộ. Nếu anh Thế đã về, hay Luyến đã lấy chồng thì thôi. Nếu Luyến vẫn ở vậy thì đưa cuốn sổ với xấp vải cho chị ấy. Nói tao xin lỗi, và tao yêu chị ấy!

Lương he hé mắt nhìn Chí quân y đang ga rô băng bó cho mình, giọng vẫn leo lẻo:

– Để băng cho thằng khác anh Chí ơi! Đằng nào em chả đi. Thành cho tao miếng nước.

Tôi kề bi đông vào miệng Lương chắt từng ngụm nhỏ. Lương giật lấy dốc uống ừng ực. Nước tràn đầy ra khóe miệng. Khuôn mặt tài tử đẹp trai của nó phảng phất một nụ cười, vì được thỏa thuê cơn khát trong phút vĩnh biệt cuộc đời.

Sau năm năm chiến trận, tuy dính vài vết thương phần mềm nhưng bị tử thần chê không vào sổ cái, tôi và Cang được giải ngũ. Hai người xuống ga Bình Lục, băng năm cây số qua cánh đồng Non tìm về xóm Vực như lời hẹn với bạn. Rặng điền thanh ngày cũ lấm tấm lá vàng, ngả nghiêng dọc bờ mương trong gió cuối thu. Chiếc loa nén trên cây xoan vẫn hát: Nghe không anh mùa xuân, về cùng tin chiến thắng, xóm vui trong ngày nắng, như gọi đồng chín vàng.

Lúa đang vàng rực đồng, và xóm quê hôm đó thật vui. Anh Thế đã trở về ngay mấy hôm sau khi đơn vị hành quân vào mặt trận. Chị Luyến hồi hộp chạy ra chạy vào. Gái một con khuôn mặt đỏ bừng, mồ hôi dấp dính tóc mai trong bếp lửa cời rơm. Gà cắt tiết kêu quang quác ngoài giếng và trên nhà bi bô đầy tiếng trẻ con. Xấp vải ka-tê của thằng Lương nằm trong túi quà chung của tổ ba người, chỉ có cuốn sổ của nó được ém lại như lời dặn.

Bà Duật thấy người về, chạy sang túm chặt tay hai thằng, lại khóc rống lên tu tu. Nước mắt dành cho ngày gặp mặt sao nghe buồn lạ. Cả xóm xúm vào hỏi Lương đâu. Cang ấp úng gãi đầu, nói Lương bận, được cử đi học trường Sĩ quan Pháo binh Quân khu 7, không về chơi đợt này. Tôi suýt nghẹn, cúi vội xuống, bế thằng cu khôi ngô dĩnh ngộ vẫn bám lấy chân mình, bước ra ngoài.

Bên thềm, chị Luyến cầm xấp vải ka-tê màu tím hoa cà ngước nhìn lên bầu trời xa xăm. Một dòng nước mắt long lanh lăn dài trên má. Dường như chị linh cảm thấy và thấu hiểu.

Trên không gian cao tít đang chuyển mùa, một đàn sếu bay qua. Tiếng bầy chim di cư líu ríu gọi nhau xao xác cả cánh đồng.

Trại viết VNQĐ, Phú Yên, tháng 5/2020

Theo Trung Sỹ/VNQĐ