‘Tụng giá hoàn kinh sư’ – viên ngọc sáng của văn chương yêu nước thời trung đại

586

Trầm Thanh Tuấn

(Vanchuongphuongnam.vn) – Trong cái hào khí chói ngời của “Thời đại Đông A” đã sản sinh ra một võ tướng kiệt xuất đồng thời cũng là một thi nhân có những vần thơ “thanh thoát, nhàn nhã, sâu xa lí thú”, Ở đây chúng tôi muốn nhắc đến Trần Quang Khải, một trong những vị tướng then chốt có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông và những vần thơ thấm đẫm tinh thần yêu nước của ông. Trong những trước tác mà hậu thế còn lưu giữ thì có thể nói Tụng giá hoàn kinh sư là thi phẩm tiêu biểu của ông.

Bài thơ này được viết nhân khi ông đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Bài thơ, một khúc khải hoàn thể hiện hào khí của những chiến công oanh liệt và khát vọng thái bình thịnh trị của con người Đại Việt. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một bài ngũ ngôn tứ tuyệt cô đọng, hết sức hàm súc:

Phiên âm

Đoạt sóc Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu () trí () lực

Vạn cổ thử giang san

Dịch nghĩa

Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương

Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử

Thái bình rồi nên dốc hết sức lực

Muôn đời vẫn có non sông này

Dịch thơ

Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm Tử bắt quân thù.

Thái bình nên gắng sức,

Non nước ấy nghìn thu.

(Bản dịch của Trần Trọng Kim)

1. Hai câu thơ đầu hiện ra cấu trúc đối hoàn hảo nhằm tạo dựng tư thế chiến đấu hết sức bất khuất của quân dân đời Trần và bức tranh toàn cảnh của cuộc chiến đấu chống quân Mông Nguyên

Đoạt – Chương Dương độ

Cầm – Hàm Tử quan

Những động từ mạnh đoạt – cầm, đăng đối với nhau được đưa lên hàng đầu nhằm khắc hoạ tượng đài người anh hùng thời Trần trong thế đối đầu: cướp giáo, bắt giặc. Những hình ảnh ấy có sức cô đọng. Nó bất tử hoà, vĩnh viễn hoá những khoảnh khắc lịch sử kì vĩ của con người Việt Nam “Thời đại Đông A”.

Hai địa danh gắn liền với những cuộc chiến đấu then chốt dành thắng lợi của dân tộc được đưa vào bài thơ cũng minh chứng cho cách lựa chọn hình ảnh đặc trưng của tứ tuyệt Đường luật – dĩ thụ tả lâm – lấy cây để tả rừng. Chọn hai trận thắng tiêu biểu nhất, từ đó có thể vẻ ra bức tranh toàn cảnh của cuộc kháng chiến với khí thế hào hùng của dân tộc, cái khí  hạo nhiên mạnh mẽ đã xông lên tận trời cao để át cả sao Ngưu ấy đã làm cho giặc ngoại xâm phải kinh hồn bạc vía.

Hơn thế nữa với cách tổ chức hình ảnh như thế đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật độc đáo, tạo sự cộng hưởng tương  tác giữa các hình tượng. Một hình ảnh cụ thể thì chỉ có thể tạo ra một lớp nghĩa cụ thể nhưng khi hai hình ảnh này kết hợp lại chúng sẽ tạo ra một lớp nghĩa mới rộng lớn hơn. Việc thi nhân sử dụng hai động từ có cùng trường nghĩa: đoạt – cầm và hình ảnh hai trận đánh có cùng tính chất trong một kết cấu đối xứng đã tạo nên một sự khái quát cao độ, một tầng nghĩa mới vút lên thoát khỏi sự ràng buộc của câu chữ.

Trong hai câu thơ đầu, thi nhân còn tận dụng triệt để hiệu quả của phép tỉnh lược đại danh từ chủ thể.

Đoạt sóc Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan

Ai là người đoạt giáo? Ai là người bắt giặc? Quân dân đời Trần. Như vậy phép tỉnh lược ở đây đã thể hiện tính phổ quát của đối tượng. Đây là chiến công không phải là của riêng ai mà là của cả của dân tộc.

Từ tầm cao của chính nghĩa, đại nghĩa, Trần Quang Khải đã gọi quân giặc là Hồ. Đây là danh từ mà người Trung Quốc chỉ những dân tộc “phiên giậu” ở phía bắc, hung hãn, man rợ, chưa được khai hóa. Như vậy từ Hồ mang nghĩa âm tính rất mạnh. Cách nghĩ, cách nhìn về đội quân mà vó ngựa xâm lăng đã trải dài từ Á sang Âu như thế đã thể hiện tầm vóc tư tưởng lớn lao của Trần Quang Khải: Sự hung hãn, tàn bạo chỉ là sức mạnh nhất thời, chỉ có tấm lòng yêu nước, kiên trinh và ý nguyện xả thân vì nước là trường tồn”. Thế nên câu nói của Trần Bình Trọng, câu nói lưu danh vào thiên cổ, là minh chứng hùng hồn cho đỉnh cao chủ nghĩa  yêu nước của dân tộc.

2. Hai câu thơ cuối, thể hiện khát vọng xây dựng đất nước của quân dân thời Trần. Câu thơ thứ ba, thi nhân lại tiếp tục tạo dựng phép tỉnh lược: Thái bình… tu trí lực nhằm tăng cường sức thuyết phục cho lời kêu gọi lên tất cả đối tượng. Từ đó mở rộng tối đa các đối tượng. Như vậy việc giữ gìn thái bình ấy không phải là của riêng ai mà của tất cả mọi người dân Đại Việt. Nền thái bình chỉ có thể trường tồn trên nền tảng đoàn kết dân tộc. Cả dân tộc hết sức mình để bảo vệ thành quả của công cuộc kháng chiến thắng lợi. Đây không những lời kêu gọi mà nó còn thể hiện một tầm nhìn chiến lược: không được ngủ yên trong chiến thắng. Công cuộc định vũ công đã vất vả mà công cuộc hưng văn trị cũng không kém gian lao có như thế thì đất nước mới có thể: Vạn cổ thử giang sơn

Câu thơ cuối thể hiện khát vọng mãnh liệt của cả dân tộc, xây dựng một đất nước vững bền “vạn cổ”. Có thể xem đây là tiếng nói thời đại kí thác vào thế hệ mai hậu ? Và lịch sử đã chứng minh ngọn lửa ấy vẫn tiếp tục được giữ gìn và thắp sáng qua bao thế hệ người Việt Nam theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Vua Trần Thánh Tông có làm hai câu thơ tặng Trần Quang Khải:

Nhất đại công danh thiên hạ hữu

Lưỡng triều trung hiếu thế gian vô

(Công danh trọn một đời, thiên hạ còn có người như ông – Tấm lòng trung hiếu đối với 2 triều vua thì thế gian không ai có).

Trần Quang Khải hoàn toàn xứng đáng với hai câu thơ ca ngợi ấy vì tấm lòng của ông đối với quê hương đất nước đặc biệt là tầm cao của tư tưởng ông. Đáng tiếc tập thơ Lạo đạo của ông không còn tuy nhiên với số lượng ít ỏi thơ văn của ông còn lưu lại được. Đặc biệt là với bài Tụng giá hoàn kinh sư, viên ngọc sáng trong văn chương thời trung đại, thiết tưởng cũng đủ để xác lập một vị trí trong dòng thơ văn yêu nước của dân tộc.

Tài liệu tham khảo

  1. Phan Huy Chú– Lịch triều hiến chương loại chí (tập IV, phần Văn tịch chí), NXB Sử học, 1961, Hà Nội.

2. Dương Quảng Hàm – Văn học Việt Nam sử yếu – NXB Hội nhà văn – 1997.

Chú thích

(1) Phan Huy Chú – Lịch triều hiến chương loại chí  (tập IV, phần Văn tịch chí), NXB Sử học, 1961, Hà Nội.

(2) Trần Quang Khải (1241– 1294) là con trai thứ ba của Trần Thái Tông. Dưới triều Trần Thánh Tông (1258 – 1278), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh đại vương. Năm 1247, ông được giao chức Tướng quốc Thái uý. Năm 1282, dưới triều Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải được cử làm Thượng Tướng Thái sư, coi nắm toàn quyền nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai sau Trần Quốc Tuấn, có nhiều công lao to lớn trên chiến trường. Tác phẩm của Trần Quang Khải có tập thơ Lạc đạo nhưng đã thất truyền chỉ còn lại dăm bảy bài. Tuy nhiên với những bài thơ còn lại cũng đủ tạo dựng cho Trần Quang Khải một vị trí trong dòng văn học yêu nước của dân tộc mà tiêu biểu nhất vẫn là bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư.

(3) Tu :

– Trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú , tu viết là đương

– Trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, tu viết là nghi

(4) Trí: Trong Văn học Việt Nam sử yếu của Dương Quảng Hàm và Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, trí viết là nỗ.

T.T.T