Việt Nam thời bao cấp: Bộ phim tài liệu giàu sức thuyết phục

645

13.12.2017-12:20

Một đám cưới những năm 1970

 

Việt Nam thời bao cấp:

Bộ phim tài liệu giàu sức thuyết phục

 

TÔ HOÀNG

 

NVTPHCM- Tại Liên hoan Phim Việt Nam diễn ra ở TP Đà Nẵng trung tuần tháng 11 năm 2017 vừa rồi, với mảng phim Phóng sự-Tài liệu, bộ phim “Việt Nam thời bao cấp” (kịch bản: Đào Thanh Tùng, đạo diễn Trần Tuấn Hiệp. Hãng Phim Tài liệu Khoa học Trung ương ) đã giành được giải Bông Sen Bạc.

 

Với một đề tài phức tạp, trải nhiều năm tháng như thể hẳn các tác giả không mang tham vọng mổ xẻ, phân tích cái được, cái mất, nguyên nhân khách quan, chủ quan; những bài học bổ ích rút ra từ một giai đoạn lịch sử mà cả dân tộc và xứ sở đã trải qua suốt vài chục năm. Tham vọng ấy, xin hãy dành cho các công trình nghiên cứu đông người, qua nhiều lần hội thảo, qua nhiều cuộc tranh cãi và thiết tưởng, cũng chỉ bằng chữ nghĩa, giấy trắng mực đen mới làm nổi. Những nhà làm phim tài liệu, với vũ khí là hai yếu tố NGHE và NHÌN biết tìm ra cách đi riêng của mình: Hãy khơi gợi để nhớ lại và sau đó suy ngẫm một chút. Từ góc độ này nên xem bộ phim “ Việt Nam thời bao cấp” như một tùy bút điện ảnh. Và nếu ý định của các nhà làm phim đúng là như vậy thì chọn được giọng điệu trữ tình đã là một thành công đáng ghi nhận của bộ phim.

 

Đề cập tới những việc, những chuyện đã xẩy ra trong quá khứ, mà nhiều người đã sống trải, đã chứng kiến hiện vẫn còn sống, cách thức đầu tiên, không tránh được là phải tìm ra những nhân chứng. Trong “Việt Nam thời bao cấp” có hai lớp người kể lại chuyện xưa: Lớp dân thường phải “hứng chịu” hoặc là những người thừa hành gần dân nhất và lớp “quan chức” – những ai dính dáng vào việc hoặc ít nhiều tham gia hoạch định và điều hành thực thi quyết sách ấy.

 

Xem “Việt Nam thời bao cấp” thấy ngay việc chọn lựa người kể chuyện này là đa dạng, dân chủ, không áp đặt chủ quan và người xem tin cậy được. Đó trước tiên là nhà báo, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến công tác tại báo Hà Nội Mới, người đã mấy chục năm nay nổi tiếng với việc sưu tầm, gìn giữ những hiện vật của thời bao cấp. Đó là ông Doãn Chí Thành, công tác đã có thâm niên tại Viện Bảo tàng Hà Nội. Hai nhân chứng này “móc nối” giúp chúng ta được nghe chuyện của những nhân chứng khác. Đó là những người bán những nhu yếu phẩm tối thiểu (gạo, vải ,thịt , dầu thắp…) như bà Huệ – bán thịt, bà Thịnh – bán gạo Nhiệm, bà Hiền – bán rau, bà Tâm – bán vải… Trên màn ảnh hiện ra những cuốn số gạo, những tờ tem mua thực phẩm, Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Hàng Bài, Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp số 5 đường Nam Bộ…

 

Gạo ư? Lao động nặng 21 ký, cán bộ 17 ký, dân thường 14,5 ký mỗi tháng. Trẻ em mới sinh 4 ký nhưng phải mua bằng bột. Cả nhà mỗi tuần được mua 1,2 lạng thịt; một tháng 1 ký đậu phụ, 5 lít dầu thắp; một năm cán bộ được mua 5 mét, dân thường 4 mét vải. Phim cũng không lảng tránh hoặc che dấu bớt những “nỗi khổ trần gian” khi các tác giả để các chứng nhân nhắc lại những dẫn dụ, những cách ví von, những chuyện tiếu lâm xưa. Ví như trong một gia đình anh chị em có thể mượn nhau cái áo, cái quần mặc mỗi khi ra đường; chuyện cơ cực khi mất số gạo; chuyện ăn quá ít chất đạm chóng đói nên mỗi bữa phải ăn tới 4 năm bát cơm, mà cơm lại không đủ. Cả những giai thoại đã thành lời ca tiếng hát xót ruột buốt lòng như:

 

Một yêu anh có may ô

Hai yêu anh có cá khô ăn dần

Ba yêu rửa mặt bằng khăn

Bốn yêu bàn chải đánh răng hàng ngày…  

               

Ấy vậy, nhưng ngay trong câu chuyện kể lại của những người trực tiếp với “giai tầng dưới đáy” vẫn lấp lánh sáng lên những hạt mẩy vàng sự bình đẳng, công bằng của một thời kỳ đồng cam cộng khổ. Bà bán gạo kể rằng việc cân đong gạo phải do những người được tin cậy, những cán bộ đảng viên đảm trách. Mất sổ gạo, muốn được cấp lại phải có chữ ký xác nhận của ông tiểu khu, ông công an khu vực, phòng lương thực, của ngay nơi bán gạo. Muốn mua được chức cửa hàng trưởng, giám đốc… mua bằng cách nào, mua ở đâu? Bà “phe” vé ngày xưa, tức hành nghề mua bán tem phiếu nhà nước đã kiếm được đồng tiền lời nuôi mấy mặt con phương trưởng…

Sổ gạo và tem phiếu thực phẩm – nỗi ám ảnh một thời bao cấp.

 

Không có giọng điệu giễu cợt, phỉ báng, càng không có sự thổi phồng để gây sự hằn học, thù oán, “đào đất đổ đi” trong câu chuyện kể lại của các nhân chứng. Cả người kể và người xem phim đều gắng kiềm nén những cảm xúc nghẹn ngào, rưng rưng chỉ muốn trào nước mắt. Vì sao? Trước hết, vì thương xót cha mẹ, anh chị đã từng chịu đựng kham khổ, cơ cực ấy mà vẫn “trụ” vững qua mưa bom bão đạn chiến tranh. Càng thương cảm hơn, tự hào hơn đám em gái, em trai đã từng thiếu ăn thiếu mặc nhưng khi ra trận vẫn gan góc, kiên cường trước hòn tên mũi đạn, để khi ngã xuống mà chưa một lần hưởng những gì người còn sống được hưởng hôm nay.

 

Cứ cho rằng cái khách quan, công tâm trong những chuyện kể lại ấy là do chủ ý của các tác giả; là do sự kỹ càng trong khâu duyệt thì vẫn phải ghi điểm son cho những người làm phim. Bởi đơn giản vì, đang xem hoặc xem hết phim bạn cũng đồng cảm, đồng tình và sẻ chia vui và buồn, xa xót và khâm phục những gì bạn cùng màn ảnh hồi tưởng lại.

               

Bộ phim “Việt Nam thời bao cấp” còn có phần 2 đề cập đến các nguyên nhân dẫn tới những năm tháng tem phiếu kia và những biện pháp tháo gỡ để chuyển qua thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập.

 

Nhưng trước đó, phim còn trăn qua trở lại một điều khác: Thời bao cấp chỉ bắt đầu từ cuối năm 1954 và đã kết thúc kết thúc sau ngày 30 tháng Tư năm 1975? Không! “Căn bệnh nan y” này và hậu quả khôn lường của nó miền Nam cón phải hứng chịu; còn kéo dài tới tận cuối năm 1988, khi cuốn sổ gạo và các con tem phân phối nhu yếu phẩm bị quét sạch sành sanh khỏi đời sống xã hội.

 

Chúng tôi đánh giá cao tính quyết liệt, triệt để, đòn phản kích cuối cùng của bộ phim “Việt Nam thời bao cấp” còn ở điểm này. Để dẫn tới một sự dứt khoát, vĩnh viễn đoạn tuyệt cả trong hành động lẫn trong suy nghĩ!

 

Chuyển qua phần tìm hiểu nguyên nhân đẻ ra nền kinh tế tập trung, bao cấp.

 

Một loạt tên tuổi đã được lựa lọc. Bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó rồi Trưởng Phòng thương mại của Chính phủ, Cố vấn kinh tế của Thủ tướng Phan Văn Khải. Tiến sỹ Lê Kiên Thành, con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn. Ông Nguyễn Chí Mì, nguyên Trưởng phòng Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội. Phó Giáo sư, Tiến Sỹ Nguyện Mạnh Hà, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng. Ông Đoàn Duy Thành, Chủ tịch, Bí thư Thành ủy Hải phòng… Người thì cho rằng nền kinh tế phân phối theo tem phiếu ấy là do cuộc chiến tranh quy định; không tuân thủ sự phân phối ấy không huy động đủ sức mạnh để chiến thắng một đối thủ như Mỹ “mạnh hơn ta cả ngàn lần”. Người khác giải thích chế độ bao cấp là sản phẩm của duy ý chí, của thái độ chủ quan khi hoạch định đường lối ở cả hai loại lãnh đạo: vô tư, quá tự tin mình đúng và loại khư khư, bảo thủ, tuyệt đối trung thành với những tín điều đã đeo đuổi. Lập luận thứ ba loang thoáng hiện ra kiến giải bởi Việt Nam “nằm trong phe” nên không thể vượt ra khỏi “quỹ đạo chung” của phe. Phim cũng đã đề cập tới việc khoán hộ của nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc. Để thấy nhận thức về Đổi mới đã xuất hiện rất sớm, từ năm 1966 nhưng vẫn cần những biến đổi qua năm tháng để tận tới Đại hội Đảng VI công cuộc xóa bỏ bao cấp, thay đổi nền kinh tế tập trung bằng nền kinh tế thị trường mới thực sự trở thành “Mệnh lệnh của Cuộc sống”.

 

Ở phần tìm hiểu nguyên nhân này người xem phim như được tạo điều kiện Xin nói thêm vài lời để tiếp cận mọi loại kiến giải mà tự rút lấy kết luận. Không hề có sự nghiêng lệch, nhấn nhá hay áp đặt. Sao không ghi nhận đây lại là chỗ “cứng tay” thể hiện bản lĩnh của các tác giả phim “Việt Nam thời bao cấp”. Trong thể tài của phim tài liệu chủ kiến của tác giả hay nói khác đi “cái lăng kính” chủ quan của người làm phim giúp để “lọc” hiện thực đóng vai trò số 1. Đúng, sai của chủ kiến ấy sẽ quyết định nên thành bại của tác phẩm.Tìm ra những nguyên nhân đích thực dẫn đến nền kinh tế tập trung bao cấp không chỉ ở riêng nước ta mà còn ở Nga, Trung Quốc và nhiều nước Đông Âu khác vẫn còn là việc để ngỏ, đang đặt ngửa trên bàn. Các tác giả bộ phim “Việt Nam thời bao cấp” không muốn khép vấn đề  bằng sự nông nổi, vội vàng. Thiết nghĩ, cách tiếp cận ấy sẽ gây được thiện cảm ở đông đảo người xem phim.

 

Xin nói thêm vài lời về chàng trai hỏi chuyện, bình chuyện là sinh viên du học ở Mỹ nghỉ hè về Việt Nam Nguyễn Vũ Tôn Hoàng. Có ý kiến cho rằng “nhân vật” này là “cứng”, là “giả”. Với logic thông thường các bạn trẻ những chàng thanh niên U90 đâu thiết tha với việc tìm hiểu về thời bao cấp? Cũng có thể là vậy, cũng sẽ tìm ra cái cá biệt? Riêng ý kiến người viết bài này thì chọn Nguyễn Vũ Tôn Hoàng là trường hợp “bất khả kháng” đối với các tác giả của bộ phim. Nếu không phải là em, ai sẽ đảm đương vai trò người hỏi và bình chuyện đây? Và nếu phim không có người hỏi và bình chuyện thì ý tứ của phim sẽ triển khai theo cung cách nào? Chưa nói rằng, nhiều câu hỏi có phần ngây thơ, hồn nhiên, thậm chí ngơ ngác nữa của Nguyễn Vũ Tôn Hoàng phải chăng… chính là đại diện cho số đông khi đã khá xa lạ, đã khá sửng sốt và ngạc nhiên, đã đặt những câu hỏi lạc lõng, nực cười trước những điều “không thể tưởng tượng nổi” diễn ra trong những năm tháng xa xôi kia.

 

Nhưng hỗ trợ cho Nguyễn Vũ Tôn Hoàng đừng quên là còn có nhà báo, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến, ông Doãn Chí Thành và nhiều người khác nữa mà!

 

 

TIN LIÊN QUAN:

 

>> Sự thể tất của trí tuệ – Lê Thị Thanh Tâm

>> Khái lược văn học Nga “thế kỉ bạc” – Đỗ Thị Hường

>> Cây xanh ngoài lời – bản lĩnh của sự lựa chọn – Hoàng Thuỵ Anh

>> Cái lạ trong thơ Trần Lê Khánh – Xuân Trường

>> Thơ đàn bà, đàn bà thơ – Ngô Đình Hải

>> Người đàn bà độc bước – Đặng Huy Giang

>> Anh tưởng giếng sâu – La Mai Thi Gia

>> Đội ngũ hoạt động LLPB VHNT hiện nay – Nguyễn Chí Hoan

>> Về dịch thuật văn học Hàn Quốc tại Việt Nam – Trần Xuân Tiến

>> Uống trà đi người ơi! – Trần Huy Minh Phương

>> Phác thảo văn học Việt Nam trên bản đồ văn học thế giới – Nguyễn Quang Thiều

 

  

>> XEM TIẾP NGHIÊN CỨU – LÝ LUẬN PHÊ BÌNH CỦA TÁC GIẢ KHÁC…