Chép lên khoảng trời: Thao thức một miền quê

521

19.11.2017-23:30

 Nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh

 

Chép lên khoảng trời:

Thao thức một miền quê

 

ĐỖ XUÂN THU

 

NVTPHCM- Bốn mươi hai bài thơ trong tập thì có tới hơn ba mươi bài thơ Nguyễn Vũ Quỳnh viết về quê hương miền xa thẳm. Nếu kể cả những bài viết về đồng đội, về Trường Sa, Trường Sơn thì anh gửi cả tấm lòng mình cho quê hương, đất nước, cho đồng đội và những người yêu thương

 

Tôi đã đọc thơ của Nguyễn Vũ Quỳnh khá nhiều trên các báo, tạp chí và trên mạng. Thế nhưng chỉ rải rác đâu đó, đủ để ấn tượng một giọng thơ, một cái tên đáng nhớ trong làng thơ đông đúc, vui vẻ ở xứ ta. Cho đến khi tập thơ “Chép lên khoảng trời” (Nxb Hội Nhà văn 2016) có trên tay thì tôi mới đọc Nguyễn Vũ Quỳnh được đầy đủ, hệ thống và giọng thơ, chất thơ của anh mới thật sự in đậm dấu ấn trong tôi. Thơ anh là sự rung động đẹp, những suy nghĩ đa cảm, bản lĩnh của một người lính đã từng đi qua chiến tranh. Đặc biệt, ở tập thơ này đó là những thao thức về một miền quê, về sự mất mát trong chiến tranh, luôn thường trực hằng đau đáu trong anh.

               

Ngay bài thơ đầu tiên được lấy tên cho cả tập – bài “Chép lên khoảng trời” – chỉ có bốn câu thôi đã nói rõ chủ ý xuyên suốt nội dung của tác giả. “Ta đưa khát vọng thời đương đại/ Về lại bến quê thăm miền cổ tích/ Chép lên khoảng trời xanh màu ngọc bích/ Chuyện ngày xưa, đối thoại bây giờ”. Vâng, ta hãy cùng anh “về lại bến quê” để cùng anh “chép lên khoảng trời” những câu thơ thao thức  miền cổ tích”, ngập tràn những nhung nhớ yêu thương.

               

Nhà thơ Giáp Văn Thạch đã viết: “Quê hương mỗi người chỉ một/ Như là chỉ một mẹ thôi”.  Nguyễn Vũ Quỳnh cũng trong tâm trạng ấy. Quê hương trong anh là “Cánh đồng mẹ tôi”, là “Bên bờ sông quê”, là “Sông Lam ngày trở về”, là “Quán rượu bờ sông”…để rồi “Quá nửa đời một thời son sắt/ Nóng ngọn gió Lào bỏng rát ca dao”. Niềm thương nhớ quê ấy thi thoảng lại ập về trong giấc ngủ, hiển hiện trong cơn mơ. Có tới bốn lần tác giả thảng thốt trong mơ gọi quê như thế. “Bần thần lạc mất tuổi thơ/ Đêm về tìm lại giấc mơ bắt đền” (Giấc mơ bắt đền); “Bước chân lội khắp đồng quê/ Đêm nằm mơ cũng mớ về chợ phiên” (Qua miền ký ức); “Đất chuyển mình rạn nứt cả giấc mơ” (Vô đề); “Đêm mơ trở lại sông quê/ Trong bâng khuâng một lối về tuổi thơ/ Như người khát gặp rừng mơ/ Chảy qua năm tháng bến bờ sông ơi” (Bên bờ sông quê).

               

Quê hương tuổi thơ anh nghèo lắm. Cái thời đạn bom, bao cấp, tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược ấy, khiến cho cả nước nơi nào cũng vậy, đều phải căng mình ra chống trọi cùng thiên nhiên, giặc giã. Hãy xem anh tả cái nghèo thuở ấy.

               

Làng tôi thuở ấy quê mùa/ Cánh cò hoang hoải cáy cua cũng gầy/ Hạn khô như vắt cổ chày/ Dòng kênh cạn bụng tháng ngày long đong” (Cánh đồng mẹ tôi). Ví “hạn khô như vắt cổ chày”, “dòng kênh cạn bụng” thì thật là cao thủ. Rồi thì “Bếp nhà một góc vại dưa/ Con rô, con diếc đồng trưa chợ làng/ Bầu trời thiêu cháy cỏ hoang/ Vẫn vang vọng tiếng dô khoan bến Sòng” (Cánh đồng mẹ tôi). Nghèo đấy, lam lũ tằn tiệm đấy nhưng vẫn yêu đời, vẫn lạc quan ca hát. Và hình ảnh này thật đẹp: “Cái ngày cây lúa trổ bông/ Lời ru gặt giữa cánh đồng mẹ tôi”.

               

Ai đã sống qua “Cái thời đói rách triền miên/ Cá lòng tong vẫn lo tiền đủ không?” chắc hẳn sẽ thấu hiểu cái “Nghèo chi rách cả đường làng/ Cá lẹp, rau má, khoai lang bốn mùa” của Nguyễn Vũ Quỳnh. Tả cái nghèo “rách cả đường làng” khéo chỉ có Nguyễn Vũ Quỳnh? Đọc thấy ngày xưa gợn ghê lắm, như te tua, tơ tướp, xác xơ ở ngay trước mặt.

 

Này đây “Bếp chiều con tép bờ sông/ Chạy qua hành mỡ ngoài đồng cũng thơm/ Quê thời bếp núc rạ rơm/ Mặn trên lưng mẹ nồi cơm độn đầy”. Ngày ấy cơm trộn quanh năm, có cái ăn no bụng là tốt rồi. Chỉ trong câu “Chạy qua hành mỡ ngoài đồng cũng thơm” thôi, cũng đủ thấy cái mùi hành mỡ ngày nghèo khó thơm tho đến thế nào rồi. Trong bản lý lịch khai vào Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh hình như ai cũng có đoạn “thiếu ăn 3, 4 tháng trong năm”. Chả thế mà “Cái thời bánh chưng, bánh dầy/ Tứa trong nước miếng luống cày đồng xa/ Những ngày giáp hạt tháng ba/ Củ dong thì sượng, cây cà đang hoa” (Qua miền ký ức). Hay “Hanh hao sương lạnh gió lùa/ Vàng hoe cả mắt những trưa học về” (Qua miền ký ức). Cơ khổ. Thèm đến tứa nước miếng. Đói đến vàng cả mắt. Đói thèm đến thế là cùng. Thì thế bây giờ mới nhớ.

 

Và đây nữa: “Thân cò chới với bờ kênh/ Tìm con tép vặt buồn tênh đồng chiều (Bên đoạn sông cong). “Chới với”, “buồn tênh” –  những tính từ Nguyễn Vũ Quỳnh chọn lựa và dùng thật đắc địa. Nghệ thuật câu chữ chính là chỗ này đây. Không cần nhiều từ, nhiều lời cũng đã bật lên cái gian khổ, cái buồn rỗng của cái đói nghèo quê hương ngày ấy.

Tập thơ “Chép lên khoảng trời” của Nguyễn Vũ Quỳnh

 

Viết, nhớ về cái đói, cái nghèo của quê hương không phải để bi lụy mà chính là tác giả nhắc nhớ cho chúng ta đã có một thời như thế. Từ trong nghèo đói, khổ đau ấy, người ta đã vươn lên, ta đã chiến thắng để có cuộc sống như ngày hôm nay. Xin ai đó chớ vội quên đi một thời cha anh ta đã anh dũng kiên cường vượt qua như thế.

 

Cái nghèo được ghi lại trong miền cổ tích ấy dâng tràn kỷ niệm mà không bi lụy chút nào bởi ý chí vượt qua đi đến hôm nay. Và đây là những gam màu sáng tươi, những kỷ niệm đẹp về quê hương của Nguyễn Vũ Quỳnh. “Cánh cò lả lướt cánh đồng/ Trời như xõa nắng, mây lồng bóng cây/ Trâu đằm như thể ngủ say/ Tiếng con chim sáo hót lay cánh diều”… “Bướm vàng xoay gió bờ ao/ Bông hoa hồng thắm cứ xao xuyến nhìn”… “Đình làng chín rặng mâm xôi/ Dòng sông vỗ sóng mây trôi dập dềnh/ Mặt trời đợi dưới dòng kênh/ Chờ tôi về giữa bồng bềnh tuổi thơ” (Trở về ngày xưa). Khung cảnh thật thanh bình, lãnh mạn. Cánh cò, trời, mây, cây, trâu, chim, bướm, sông, tôi… với “lả lướt”, “xõa nắng”, “lồng bóng”, “ngủ say”, “xoay gió”, “vỗ sóng”, “dập dềnh”… thật đa sắc, đa thanh, sinh động quá chừng. Đặc biệt “Mặt trời đợi dưới dòng kênh/ Chờ tôi về với bồng bềnh tuổi thơ” thì thật thi vị và lãng mạn. Quê thế mới là quê chứ.

 

Hình ảnh thật đẹp, chỉ thôn quê mới có đã được tác giả vẽ lên bằng những câu thơ: “Thương những bắp chân nõn nà con gái/ Vội vàng chao giữa cầu ao”; “Thơm hương cơm nếp đầu mùa/ Khói lam chiều bảng lảng cổng thềm xưa” (Trả lại cánh đồng). Đầu hai thứ tóc, sống giữa thị thành mấy chục năm rồi mà hình ảnh ấy còn lưu giữ, lắng đọng mãi trong lòng tác giả. Phải đau đáu với làng quê lắm lắm, mới có được những hình ảnh nên thơ như thế.

 

Nguyễn Vũ Quỳnh “Đã lâu rồi xa bếp lửa làng quê/ Nghe tiếng gió chợt tim mình bối rối” (Nhớ) để rồi “Quê nhà quả khế/ còn chua/ Rau mồng tơi với cáy cua/ cá thèn/ Sấu bây giờ chín/ chưa em/ Tự dưng anh thấy khát thèm/ ngoài quê” (Tản mạn quê nhà). Và đây, hình ảnh thật đẹp nữa lại hiện ra trong thơ anh: “Cánh cò lửa bay qua miền nắng cháy/ Hoa sim chiều tím ngát cả đồi xanh” (Thức một vùng quê). “Lửa”, “cháy”, “chiều tím”, “đồi xanh”… vừa rừng rực vừa man mác, rất dữ dội nhưng cũng rất đằm sâu, lắng đọng.

 

Như bao trai làng khác, Nguyễn Vũ Quỳnh cũng để lại quê nhà những mối tình thật thơ mộng lãng mạn. “Ven đường ngày ấy cỏ may/ Còn rơi rớt gió những ngày/ lặng im/ Gần nơi ấy giữa/ đồi sim/ Là nơi đánh mất, đi tìm/ ngày xưa” (Tìm xưa). Chắc phải kỷ niệm nặng sâu lắm ở nơi ấy mới có những câu thơ khắc khoải như thế? Cỏ may ven đường găm vào ký ức để những ngày rơi rớt gió bất chợt nhớ, bất chợt thương cho tác giả cứ mải miết, cứ lặng im đi tìm “ngày xưa” đã vuột mất? Cả cô thôn nữ kia nữa, chắc cũng chông chênh, khắc khoải cùng anh? Là nơi đánh mất/ đi tìm/ ngày xưa. Mất cái gì chỉ họ mới hiểu thôi. Ôi mối tình đầu thôn quê! Sao mà nhớ, sao mà thương đến thế!

 

Mang mối tình đầu trong tim tha hương, đôi lúc Nguyễn Vũ Quỳnh vẫn xoáy lên trong tim mình câu hỏi “Tôi về hẹn với ngày mai/ Tìm trong xa thẳm chờ ai một mình?” (Còn không). Anh đã “Ra đi mang cả một thời/ Tình người, tình đất và lời quê hương” để khi nghe tiếng “Gió đang mắc kẹt bờ tre/ Trời xanh nợ một lời thề bão giông/ Còn không quán rượu bờ sông/ Mà sao say giữa cánh đồng giêng hai” (Còn không). Gió mắc kẹt bờ tre, bờ sông, quán rượu những cái cớ để tác giả nói về món nợ lớn – nợ lời thề bão giông. Thế nên, dẫu ở giữa cánh đồng giêng hai, dẫu quán rượu không còn nữa thì Nguyễn Vũ Quỳnh vẫn say cái say của thuở yêu đầu. Bởi vì “Màu thời gian ngỡ lãng quên/ Ngờ đâu trẻ lại trong miền xa xăm” (Trong miền xa xăm). Để rồi “Bắt đền nỗi nhớ/ của nhau/ Dòng sông khát nắng/ tím màu hoàng hôn/ Mấy ai biết được/ dại khôn/ Có ai hôn nửa/ nụ hôn bao giờ” (Giấc mơ bắt đền). Thì thế. Tôi cũng đã viết: “Nụ hôn đầu đời vụng dại/ em trao tôi còn ngọt đến bây giờ”. Và hôm nay bắt gặp nụ hôn của Nguyễn Vũ Quỳnh giữa khôn dại tình đầu cũng không thể nói đó là nửa nụ hôn được. Đã đành là thế rồi. Vậy thì cứ bắt đền nhau đi, hỡi người xưa yêu dấu!

 

Đau đáu nhớ quê hương, nặng lòng cùng hoài niệm, thế nên khi anh trở về quê “Nghe tiếng chim bắt cô trói cột/ Mà sâu lắng bần thần”. Cảnh cũ, người xưa đã không còn nữa. “Cây thị già cũng bỏ ta đi/ Khi ruộng đồng bê tông cốt thép/ Nóng khô đốt cháy chân trời/ Tiếng chim như bất ngờ tiếng nấc”. Rồi “Những con đường thưa mùa rơm rạ/ Khói bếp chiều cũng tắt lịm mái quê/ Cây lá vắng/ Còn chỗ nào chân chim tìm đậu?” (Góc trời quê). Thời buổi công nghiệp hóa, làng quê cũng cuốn trong cơn lốc chuyển mình như thế. Xô bồ, ngổn ngang, gấp gáp. Sắt thép, bê tông, lầu cao phố xá thay cho mái rạ mái rơm. Mừng đấy nhưng cũng trở trăn lắm đấy. Bao kỷ niệm ngày xưa đã phải tìm trong ký ức. Hiện thực cũ không còn nên càng chông chênh ưu tư hơn. Đúng là đem “Chuyện ngày xưa đối thoại với bây giờ” trước cuộc hành trình đô thị hóa đến chóng mặt mà ngỡ ngàng, mà xa xót. Phải chăng “Gió đang mắc kẹt bờ tre/ Trời xanh nợ một lời thề bão giông”?

 

Bốn mươi hai bài thơ trong tập thì có tới hơn ba mươi bài thơ Nguyễn Vũ Quỳnh viết về quê hương miền xa thẳm. Nếu kể cả những bài viết về đồng đội, về Trường Sa, Trường Sơn thì anh gửi cả tấm lòng mình cho quê hương, đất nước, cho đồng đội và những người yêu thương. Anh viết: “Đồng đội ơi chúng ta/ Chẳng đứa nào mà không có tên/ Khi điểm danh đứa nào cũng có/ Lúc ngã xuống trong bom rơi đạn nổ/ Trên mộ phần tên người có người không” (Đồng đội ơi). Viết về sự hi sinh mất mất của đồng đội, nỗi đau như thế, mấy ai viết xúc động đến như vậy. Thơ anh tung tẩy nhiều thể loại. Lục bát nhuyễn, tứ chặt, ý hay. Có rất nhiều câu găm vào lòng người đọc. Các thể thơ tự do, năm chữ anh sử dụng thành thạo, biến hóa, chuyển tải được tư tưởng và tình cảm của mình. Anh không theo hướng cách tân, hậu hiện đại, không cố tình làm xiếc câu chữ, đánh đố người đọc. Chính vì thế mà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh dân giã, giàu nhạc điệu, chất chứa tình đời, tình người. Đọc anh thấy hồn quê hiển hiện, lâng lâng trên từng con chữ. Tuy nhiên, có đôi ba chỗ anh gieo vần lục bát hơi bị gần nhau nên chưa thật đã lắm. Đó là các bài Ngày ấy (vần “ay”), Qua miền ký ức (vần “a”), Cánh đồng mẹ tôi (vần “òng, ồng). Giá anh chau chuốt thêm ít nữa thì tuyệt.

 

Gấp tập thơ lại, tôi vẫn bị ám ảnh, hút hồn với những con chữ của Nguyễn Vũ Quỳnh. Anh đã dắt đưa tôi về với một miền quê ắp đầy kỷ niệm để thao thức cùng anh “chép lên khoảng trời” bốn mươi hai thi phẩm cuộc đời. “Chiều nay trở lại đường quê/ Bánh xe quen rẽ lối về ngày xưa”. Vâng, tôi đang cùng anh rẽ lối về ngày xưa đây thi sĩ ạ. Xin chúc mừng anh với thành công của tập thơ này và tiếp tục mong chờ những tập thơ mới tưng bừng hơn nữa.

 

 

TIN LIÊN QUAN:

 

>> “Ngũ hổ” thơ Hàn Quốc – Đặng Huy Giang

>> Tây Nguyên trong thơ Đặng Bá Tiến- Nguyễn Minh Khiêm

>> Niềm yêu hiển lộ từ những lớp ví dụ – Trần Quang Quý

>> Về bộ phim tài liệu Mỹ The Vietnam War – Tô Hoàng

>> Nhà văn đương đại di cư ngôn ngữ – Inrasara

>> Truyện ngắn nữ trong văn xuôi Việt Nam đương đại – Phạm Thị Thanh Phượng

>> Chabbi – nỗi khắc khoải phận người – Cao Thị Hồng

>> Bí ẩn lời yêu trong Đêm thơm lựng mùi sen – Trúc Linh Lan

>> Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc – Huyền Minh

>> Chữ bầu lên nhà thơ – Lê Đạt

>> Những câu thơ viết trong miên cảm – Nguyễn Minh Khiêm

>> Chúng ta đã phản bội thơ như thế nào? – Nguyễn Thanh Tâm

 

 

>> XEM TIẾP NGHIÊN CỨU – LÝ LUẬN PHÊ BÌNH CỦA TÁC GIẢ KHÁC…