Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Huy Cận – 2

869

23.6.2018-16:40

 Nhà phê bình Nguyễn Hữu Sơn

 

>> Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Huy Cận – 1

 

Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Huy Cận

Kỳ 2

 

PGS.TS NGUYỄN HỮU SƠN

 

NVTPHCM- Tác giả Lửa thiêng đã đứng về phương diện tình cảm để giải quyết một vấn đề thuộc về siêu hình học. Có “cái mạch sống mênh mang ồ ạt”, ông “tin tưởng ở sự sống, ở sức sống của con người”, ông “đã yêu sự sống” quá chừng nên… phải nhập cuộc (cuộc sống). Ông “xin Thượng Đế tha cho chúng sinh cái nhục héo hon, cằn cỗi”, và cầu nguyện để mong Thượng Đế thương lấy “muôn loài cằn cỗi” và cho chúng sinh “lây cái vui chuyển trời của cuộc sống”.

 

Nhưng Vũ Trụ không vui, cũng không buồn, vẫn thản nhiên, lãnh đạm, trước những cuộc phế hưng, dâu bể. Cũng như đóa hoa sớm nở, chiều tàn, sống, chết, là những sự tự nhiên trong trời đất. “Cục vui của Tạo Hóa” là cái quái gì? Chẳng qua “đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra” thì phải làm tròn phận sự, gánh vác với đời, góp mặt với giang sơn, chứ có phải đâu vì “yêu sự sống quá chừng” mà nhập cuộc sống đâu?

 

“Vai vút mạnh, ngực dô ra”, ông Huy Cận hăng hái “đi chinh phục cuộc đời” với một tin tưởng mãnh liệt vào sự sống; nên ông cầu cho muôn loài “lây cái vui chuyển trời của sự sống”, ông tưởng rằng dưới gầm trời ai cũng “vui như cây lên, như nước chảy”, ai cũng là “giòng sông chảy ào về biển” cả.

 

Khi “ta vui thì ta gần Tạo vật”, lòng ta vui thì ta thấy cả Tạo vật “như tự lòng ta mà ra”; trái lại, khi “lòng yêu” của ta hầu cạn, thì sự sống cũng xa ta. Lòng ta buồn, thì “nhịp đàn của Vũ trụ” cũng lỗi. Kết luận: nếu nghĩa sự sống chỉ là lòng yêu sự sống mà thôi, thì một khi lòng yêu không còn tha thiết nữa, sự sống sẽ trở nên vô nghĩa.

 

Phân tách tình thương hại, tác giả cho là “một điều bịa của con người… không tự nhiên, và không mỹ thuật chút nào”. Tuy vậy, ông cũng công nhận rằng “xã hội cần đến (tình thương hại) ở dưới đồng bằng”. Nhưng, “ở trên đỉnh ta cần chi đến”; và “nếu không có lòng thương”… thì “biết đâu” ông “đã không vút lên trời từ mấy thuở”! Phải, biết đâu đấy! Ông vút lên trời, chắc là để “trông xuống thế gian cười”! Thật là “những ý nghiêng trời chuyển đất”, và “ghê gớm”. Nhưng theo Anatole France, thì tình thương hại lại là cần. Ta hãy nghe tiên sinh: “Tôi càng nghĩ đến sự đời, lại càng tưởng nên lấy sự trào phúng và bi thương làm chủ và làm chứng cho đời người. Sự trào phúng và sự bi thương là hai bạn tốt lắm; một bên cười làm cho đời người đáng yêu; một bên khóc làm cho đời người đáng kính” (Plus je songe à la vie humaine, plus je crois qu’il lui faut donner pour témoines et pour juges l’Ironie et la Pitié. L’Ironie et la Pitie sont deux bonnes conseillères; l’unne en souriant, nous la rend aimable; l’autre qui pleure nous la rend sacrée… Phạm Quỳnh dịch). – Có lẽ theo thuyết sau này đúng hơn. – Chính ông Huy Cận cũng khuyên ta: “Lá vàng có đáng thương chi, hãy dành lòng mà thương lá héo” (Kinh cầu tự, tr.42) tuy ở mấy trang trên (28) ông đã bảo rằng “lòng thương hại không đẹp đâu… không tự nhiên”. – Dẫu sao, cuộc đời là một tấn bi hài kịch, nên khi cười, lúc khóc, có điểm thêm ít trào phúng và bi thương, tưởng cũng không phải là thừa vậy. Vả lại, nếu người xưa “Thương con quốc rũ kêu mùa hạ/ Thương cánh bèo trôi rạt bể đông”, thì ngày nay, chúng ta có “thương vợ chồng Ngâu, duyên chểnh mảng; thương cha mẹ rện, phận long đong” cũng không có hại chi cơ mà!

 

Ông Huy Cận lại khuyên ta “nhổ hận trong lòng… mà vứt đi! Hối hận không phải là cây tự nhiên trên đất này…”. Thiển nghĩ, hối hận cũng như lòng thương hại, cần cho thế nhân lắm. Nhiều khi hình phạt của xã hội, hay “búa rìu của dư luận” cũng không làm cho người ta đau đớn bằng sự hối hận, có khi triền miên suốt đời không hết. – Một người đã phạm một điều đại gian ác, chung quanh không ai biết. Nhưng những lúc đêm khuya thanh vắng, “Một mình mình biết, một mình mình hay”, lương tâm dày vò, hối hận cắn rứt,… ví dụ kẻ kia còn nhất điểm lương tâm…, thì cái sự hình phạt thiên nhiên đó làm cho đau đớn e chề, dẫu sống đến trăm năm cũng không chắc đã nhổ được gốc trong lòng mà vứt đi một cách ung dung giản dị! Cho nên bàn tay của Macbeth đã vấy máu tội lỗi, thì tất cả những hương thơm của xứ Arabie cũng không sao gội sạch được.

 

Có lẽ tác giả Kinh cầu tự quên rằng hai năm trước, trong tập Lửa thiêng đã viết bài Thân thế (… Nếu Chúa biết bao nhiêu hồn ly tán. Vì đã nâng bình lửa ấp lên môi; thì hẳn Chúa cũng thẹn thùng hối hận. Đã sinh ra thân thế của con người…). – Thượng Đế, Chúa Đời còn biết hối hận thay, huống chi người!…

 

…Tác giả Kinh cầu tự có kiêu hãnh không? Ta cứ xem đoạn văn này sẽ rõ: “… Kẻ đọc ta ơi! Ta đang may áo trừ hao cho người đây. Ít lúc nữa tâm hồn anh mới bận tư tưởng của ta đó… Ta mong cho tâm hồn anh chóng nhớn?… ta mong anh chóng vất áo ta đi…”. Và: “Những chiều thơ dại, đã có khi ta muốn cầm trái đất trong tay mà vắt như một quả cam…”. Chắc là vắt lấy nước ngọt và bổ để uống cho đỡ khát! Vì tác giả khát khao chân lý, đang “đi tìm nguồn”. Ông Huy Cận quả đã hơn M. Barrès và André Gide”…

 

Tại Phần II- Thơ Việt Nam hiện đại trong chuyên khảo Việt Nam thi ca luận (Khuê Văn xuất bản cục, H., 1942), Lương Đức Thiệp đi sâu phân tích thơ Huy Cận và chú trọng đặt trong tương quan với nhiều thi nhân khác:

 

“Với ông Huy Cận, trường “Thơ mới” tiến vượt lên một bực nữa.

 

Qua những bài thơ, những bài “lục bát” đặc sắc:

 

… Tai nương nước giọt mái nhà,

Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn.

Nghe đi rời rạc trong hồn,

Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…

… Ngập ngừng mép núi quanh co,

Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang.

Vi vu gió hút nẻo vàng,

Một trời thu rộng mấy hàng mây nao…

… Trơ vơ buồn lọt quán chiều,

Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người…

… Đồn xa quằn quại bóng cờ,

Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về…

… Bờ tre rung động trống chầu,

Tưởng chừng còn vọng trên lầu ải quan…

… Khuya nay mùa động đầu cành,

Đồng trăng lục nhạt, vàng thanh lối gần…

… Đêm nay không khí say nồng,

Nghìn cây mở ngọn muôn lòng hé phơi.

Khuya nay trông những mạch đời,

Mùa thanh xuân dậy thức người héo hon.

Ngón tay tưởng búp xuân tròn…

… Nai cao gót lẫn trong mù,

Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.

Sắc trời trôi nhạt dưới khe,

Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng…

 

Ta thấy tâm hồn thi sĩ rung động. Một tâm hồn phiền toái hơn tâm hồn ông Thế Lữ và Xuân Diệu, một tâm hồn có nhuốm màu thần bí.

 

Hỡi Thượng đế người công phu biết mấy!

– Nhưng mọt sâu nương náu giữa lâu đài…

… Thân không chán đau, ngực sầu thở chết,

Tay bồng thân và tay nữa ôm mồ…

… Chẳng bao lâu nữa sầu trong đất,

Vĩnh viễn mùa đông lạnh chỗ nằm…

 

Bởi vậy thơ ông Huy Cận cũng đặc sắc hơn và nguồn cảm cũng giàu hơn. Song đáng tiếc ông hành văn còn Tây quá:

 

… Rồi tôi khóc, và đầu tôi ngủ gục,

Mắt tôi mờ, và tay tôi xuôi…

… Ồ những người ta đi hóng xuân.

… Bắt gặp mùa tươi lên run rẩy,

Trong cành hoa trẻ, cổ chim non…

 

Nhiều bài đáng nhẽ hay hơn được nữa, cũng vì ông còn thiếu cái mềm dẻo của Việt ngữ mà bị giảm giá trị. Và, qua tác phẩm của ông cũng như trong thơ Xuân Diệu, ta thấy hình bóng lờ mờ của Baudelaire:

 

Et dans un baillement avalelerait le monde.

                              (Baudelaire)

 

Thâu trong cái ngáp dài vô hạn

Hình ảnh lung lay vũ trụ tàn

                        (Huy Cận)

 

Tuy hai ông cũng như ông Thế Lữ có xu hướng lãng mạn. Mà cũng cả trong hai ông, nhất là trong ông Xuân Diệu, ta cũng nhận được đôi dấu vết của phong trào “Son Trẻ” bột phát (1935-38) qua những bài có cái giọng dí dỏm hay sỗ sàng:

 

… Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn,

Tuổi hai mươi đến có ai ngờ!

Một hôm trận gió tình yêu lại:

Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ…

… Ai biết người yêu nhỏ của tôi,

Người yêu nho nhỏ trốn đâu rồi?

Bảo giùm với nhé: em tôi đó,

Tròn trĩnh xinh như một quả đồi.

                         (Huy Cận)

 

… Muốn dập thơ theo kiểu Tây phương, muốn theo hình thức của thơ Pháp, những hộ tinh xoay quanh ba ngôi định tinh đang lúc chói lòa (Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận) cũng a dua đả phá niêm luật, đả phá âm hưởng. Họ có ngờ đàn ba ngôi “sao” ấy đã từng hiểu biết, mới có ý định cải cách,có ý định phá bỏ lề luật của người xưa”…

 

Đến công trình tổng thành Thi nhân Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Huế, 1942…), Hoài Thanh – Hoài Chân chọn in thơ Huy Cận 11 bài (đồng hạng Nhì với kiện tướng Lưu Trọng Lư), chỉ xếp sau Xuân Diệu (15 bài). Trong phần lời dẫn, hai ông nhấn mạnh chất trữ tình và những giá trị nhân văn, nhân tính, những buồn vui muôn thuở trong hồn người cùng một lối nói, một điệu thơ Huy Cận không thể trộn lẫn:

 

“Đã có hồi người ta tưởng muốn làm thơ hay phải là người hay khóc và thi nhân mỗi lần cầm bút là một lần phải “nâng khăn lau mắt lệ”. Nhưng buồn mãi cũng chán. Trên tao đàn Việt Nam bỗng phe phẩy một ngọn gió yêu đời, tuy không thổi tan những đám mây sầu u ám, song cũng đã mấy lần ngân lên những tiếng reo vui. Người thính tai sẽ nhận thấy trong những tiếng kia còn biết bao nhiêu vui gượng, nhưng dầu sao sự cố gắng đau đớn của cả một lớp người đi tìm vui, cái cảnh ấy ai thấy mà chẳng động lòng? Than ôi! Ngày vui ngắn ngủi, chưa được mấy năm nỗi buồn đã trở về, thảm đạm và nặng nề hơn xưa.

Nó đã trở về trong tập Lửa thiêng. Với những tính cách khác hẳn. Cái buồn Lửa thiêng là cái buồn tỏa ra từ hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh. Có người muốn làm thơ phải tìm những cảnh nên thơ. Huy Cận không thế. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng đời thi nhân không cần có nhiều chuyện. Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người luôn luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong. Ai đã so sánh “Las Mocedades del Cid” của Guillen de Castro với “Le Cid” của Corneille hay “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân với “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du đều nhận thấy trong “Đoạn trường tân thanh” và trong “Le Cid” nhiều tình mà ít chuyện. Nếu ta so sánh thơ Huy Cận với thơ hồi trước, ta cũng sẽ thấy như thế.

 

Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích hẳn không bao giờ tan được:

 

Thôi đã tan rồi vạn gót hương

Của người đẹp tới tự trăm phương.

Tan rồi những bước không hò hẹn

Đã bước trùng nhau một ngả đường.

 

Lại có khi suối buồn thương cứ tự trong thâm tâm chảy ra lai láng không vướng chút bụi trần:

 

Ôi! Nắng vàng sao mà nhớ nhung!

Có ai đàn lẻ để tơ chùng?

Có ai tiễn biệt nơi xa ấy,

Xui bước chân đây cũng ngại ngùng

 

Phải tinh lắm mới thấy rõ lòng mình như thế giữa cái ồ ạt, cái rộn rịp của cuộc đời hằng ngày.

 

Đây có lẽ là một điều Huy Cận đã học được trong thơ Pháp. Nhưng với trí quan sát rèn luyện trong nền học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về những cảnh xưa, nơi bao nhiêu người đã sa lầy  tôi muốn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn. Và cũng như người đã làm thơ với những cái hình như không có gì nên thơ, người tìm ra thơ trong những chốn ta tưởng không còn có thơ nữa. Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này. Huy Cận triền miên trong cảnh xưa, trò chuyện với người xưa, luôn luôn đi về trên con đường thời gian vô tận. Có lúc hình như thi nhân không phân biệt mộng với thực, ngày trước với ngày nay. Cảnh trước mắt mơ màng như đã thấy ở một kiếp nào, tình mới nhóm người tưởng chừng đã hẹn đâu “từ vạn kỷ”.

 

Nhưng con đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch; tứ bề càng vắng lặng, mênh mông. Có lẽ thi nhân trong cuộc viễn du đã có lần nhác thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã nghe trong hồn hơi gió lạnh buốt từ vô cùng đưa đến. Một Pascal hay một Hugo trong lúc đó sẽ rùng mình, sẽ hốt hoảng. Với cái điềm đạm của người phương Đông thời trước, Huy Cận chỉ lặng lẽ buồn:

 

Một chiếc linh hồn nhỏ:

Mang mang thiên cổ sầu.

 

Tôi nhớ lại cái buồn của một thi nhân khác, Trần Tử Ngang, ngàn năm trước, cũng đã có một cuộc viễn du tương tự như thế:

 

Ai người trước đã qua?

Ai người sau chưa đẻ?

Nghĩ trời đất vô cùng,

Một mình tuôn giọt lệ.

 

(Theo bản dịch của Ô. Võ Liêm Sơn trong Cô lâu mộng. Nguyên văn chữ Hán:

 

Tiền bất kiến cổ nhân,

Hậu bất kiến lai giả.

Niệm thiên địa chi du du,

Độc thương nhiên nhi lệ hạ)

 

Tuy nhiên điềm đạm đến đâu người ta cũng không thể một mình đứng trước vô cùng. Người ta cần phải nương tựa vào một cái gì cho đỡ lẻ loi: một lòng tin hay, ít nữa, một tình yêu, theo nghĩa thông thường và chân chính của chữ yêu. Huy Cận có lẽ đã thiếu tình yêu mà Thượng đế của người lại chỉ là một cái bóng để gửi ít câu thơ thì được, để an ủi thì không. Cho nên người thấy mình lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian. Lời thơ vì thế buồn rười rượi. Nhưng thương nhất là những đoạn thơ vui (chẳng hạn bài “Tình tự”)Ta thấy một người hiền lành lắm và non dại lắm, vui hấp tấp, vui cuống quýt, vì trong lúc vui người cũng biết buồn đương chờ mình đâu đó.

 

Nhưng thương hay mến có làm gì. Thương mến không đủ làm tan nỗi bơ vơ. Khoảng trống trong lòng thi nhân họa tình yêu mới lấp được muôn một.

 

Có người bảo thơ Huy Cận già. Già vì buồn, già vì hay kể lể những chuyện xưa. Nhưng trong đời người ta còn có tuổi nào hay buồn hơn tuổi hai mươi (Tuổi hai mươi, không phải hai mươi tuổi). Còn có tuổi nào hay vẩn vơ hơn. Tôi thấy thơ Huy Cận trẻ lắm. Huy Cận đã đưa tôi về khoảng đời tôi bảy tám năm trước. Tôi bùi ngùi thương chàng niên thiếu hồi bấy giờ đã sống luôn mấy năm trong hiu quạnh. Chàng cũng mang một tấm lòng chứa chan yêu dấu đi tìm tình yêu trong tình bạn. Và vì thế chàng cũng đã đi lầm đường. Chàng thấy cảnh trời đẹp, chàng gặp những tâm hồn cao quý, chàng được vô số mến thương. Nhưng đẹp làm gì, cao quý làm gì, thương mến làm gì, nếu lòng chàng không hề đón được ít hương ân ái. Vũ trụ bao la quá, lòng chàng giá lạnh quá, chàng muốn quên mình, quên hết thảy trong tình yêu của một người, vô luận người nào. Chàng gõ cửa hết nơi nọ chốn này song bao nhiêu tâm tư đều đóng kín.

 

Nỗi lòng xưa, nay sực tỉnh. Đọc thơ Huy Cận tôi đã gặp lại một người em.

 

Chỉ một người em? Không. Năm tháng dầu đi qua, đời tôi dầu có khác, nhưng tuổi hai mươi đã thực chết trong lòng tôi?”…

 

Đến mục tác gia Huy Cận trong sách Nhà văn hiện đại, Quyển ba (NXB Tân dân, H., 1943), Vũ Ngọc Phan nhấn mạnh những khác biệt những khác biệt giữa thơ Huy Cận với Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu:

 

“Tác giả Lửa thiêng (Đời Nay – Hà Nội, 1940) thật đã không giống Xuân Diệu và cũng đã khác hẳn Lưu Trọng Lư. Ở Huy Cận, ta không thấy những tiếng kêu ầm ỹ, nóng nẩy như ở tác giả Thơ thơ và ta cũng không thấy cái buồn vơ vẩn và nhẹ nhàng như ở tác giả Tiếng thu. Huy Cận than thân thì ít mà góp tiếng khóc với đời thì nhiều. Cái giọng nhớ hờ, thương hão của ông đôi khi có hơi giống Tản Đà, nhưng ông lại khác Tản Đà ở chỗ có lòng tin tưởng ở đấng tối cao. Lòng tin tưởng ấy lai láng trong gần hết các bài thơ trong tập Lửa thiêng và ông đã diễn ra với cả một tâm hồn nghệ sĩ. Đứng trước thiên nhiên và nhân loại, ông là một họa sĩ giàu lòng tín ngưỡng và bình tĩnh, cần cù, ngồi vẽ những nét dịu dàng, không quá bạo, để không phải tả riêng mình, mà tả tất cả mọi người. Bởi thế sự “trình bày” của ông không phải riêng ông mới có, nó có thể là sự trình bày của tất cả những người buồn rầu và biết tin tưởng ở Trời, tin cậy ở Trời.

 

Hãy nghe:

 

Hỡi Thượng đế! tôi cúi đầu trả lại

Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang.

Sầu đã chín, xin Người thôi hãy hái!

Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đường.

                (Trình bày, tr.19)

 

Phải tin cậy ở Thượng Đế lắm, mới có thể thốt ra những lời ấy được. Tin cậy một cách không ngậm ngùi, thương tiếc và kêu ca. Nhưng vì sao lại có sự tin cậy ấy? Vì khi mắt đã mờ, tay đã buông xuôi, thì:

Không biết nữa, thiên đường hay địa ngục;

Quên, quên, quên đã mang trái tim người.

                        (Trình bày, tr.22)

 

Mắt mờ, tay buông xuôi là lúc loài người hết cảm giác, nên, tác giả mới phải trách Trời:

 

Nếu Chúa biết bao nhiêu hồn ly tán

Vì đã nâng bình lửa ấp lên môi;

Thì hẳn Chúa cũng thẹn thùng hối hận

Đã sinh ra thân thể của con người.

                        (Thân thể, tr.25)

 

Trời đã tạo người không theo hình ảnh của Trời! Đó là tiếng than thở của nhân loại từ xưa và bây giờ là tiếng kêu than của Huy Cận.

 

Lẽ thường, ở đời, chỉ có khóc về mình, người ta mới khóc thảm thiết, còn khi khóc cả cho người và cho mình, người ta vừa gạt nước mắt vừa liếc trông người bên cạnh. Khi đã không có sự tủi thân – có riêng ai, mà tủi thân! – cái khóc của người ta không tránh sao được sự lặng lẽ. Bởi vậy, cái buồn của Huy Cận tôi muốn gọi là cái buồn của người nghệ sĩ hơn là cái sầu của thi nhân.

 

Đứng trước cảnh vật, Huy Cận đã nhìn bằng con mắt khách quan, dầu ông có ngỏ tình ý thì cái tình ý ấy cũng là tình ý của nhiều người khác.

 

Đây, một bài thơ đầy nghệ thuật, một bài thơ tả một nghệ sĩ nằm dưới gốc cây, nhìn lên chiếc lá in vào nền trời xanh thẳm và tưởng tượng là một con thuyền trước ngọn triều dào giạt, quanh quất có tiếng nhạc u huyền:

 

Giữa trời hình lá con con

Trời xa sắc biển, lá thon mình thuyền.

Gió qua là ngọn triều lên

Hiu hiu gió đẩy thuyền trên biển trời.

Chở hồn lên tận chơi vơi

Trăm chèo của Nhạc, muôn lời của Thơ.

Quên thân như đã quên giờ

Tê mê cõi biếc bến bờ là đâu.

      (Trông lên, tr.29)

 

Đến những bài Đẹp xưa, Tràng giang, Thu rừng, thì thật là những bức tranh thủy mạc không hẳn của một nước nào, hay của một dân tộc nào. Cái tính cách “nhân loại” ấy có hơi cổ, hơi lặng lẽ, nhưng nó lại được cái đầy đủ, nghiêm trang, có thể đem treo ở một phòng khách lớn, cái phòng tiếp cả người thân lẫn người sơ.

 

Hãy đọc:

 

Dừng cương nghỉ ngựa non cao

Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon…

Đi rồi, khuất ngựa sau non;

Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu…

                        (Đẹp xưa, tr.43)

 

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng:

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

                  (Tràng giang, tr.52)

 

và:

 

Sầu thu lên vút song song,

Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.

Non xanh ngây cả buồn chiều,

– Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.

                   (Thu rừng, tr.52)

 

Thật là những câu tuyệt bút, đặc giọng thơ Đường, để tả những cảnh buồn, và cũng thật là “nhân loại”. Theo những câu trên này, một họa sĩ Tàu, một họa sĩ Nhật, một họa sĩ Ấn Độ, hay một họa sĩ Việt Nam, đều có thể vẽ nên một cảnh ở nước mình. Vì, người lữ thứ, con ngựa bên non, chuyến đò ngang, sắc trời, mặt nước, chim bay, rừng thu, đều không có những màu sắc thuộc hẳn xứ nào. Cả đến cái cảm giác ngây ngất trước cảnh đẹp cũng là cái cảm giác của loài người từ thiên vạn cổ mà thi nhân đã bao lần ca ngợi. Huy Cận nghệ sĩ ở chỗ đó và cũng thiếu cái đặc sắc của nhà thơ ở chỗ đó: ông đã không đem cái tâm hồn của riêng ông để hòa cùng vũ trụ.

 

Về tả tình cũng vậy. Huy Cận bình tĩnh vô cùng, nên dù khi “ngậm ngùi” (tr.82), khi “hối hận” (tr.38) cho đến lúc “tình tự” (tr.34), lúc “tiễn đưa” (tr.49), ông cũng giãi tỏ những tính tình bình thản như những lúc ông “nhớ hờ” (tr.63) thương hão. Thật không làm gì có những câu nồng nàn, tha thiết, nóng nẩy như mấy câu sau này của Xuân Diệu:

 

…Và cảnh đời là sa mạc vô liêu

Và tình ái là sợi giây vấn vít.

Yêu, là chết ở trong lòng một ít.

                (Thơ Thơ, tr.29)

 

Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng:

“Gần thêm nữa! thế vẫn còn xa lắm”

                        (Thơ thơ, tr.31)

 

Hay những câu nhớ nhung đắm đuối như mấy câu này của Lưu Trọng Lư:

 

Bên khóm mai gầy một sớm thu,

Lòng sao thắc mắc mối sầu u.

Vắng chàng quên cả lời chàng dặn:

Dạ buồn lại thổi tiếng vi vu…

                   (Tiếng thu)

 

Cũng là những tình, những cảnh buồn, mà ở mỗi nhà thơ, một khác.

Đây hãy nghe lời tình tự của Huy Cận, những lời rất đẹp, rất êm đềm, nhưng thật không phải những lời tha thiết tự tâm can:

 

Thu chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm,

Đời tàn rơi cùng sao rụng canh thâu;

Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,

Gió than thở biết mấy lời van vỉ?

                 (Tình tự, tr.35)

 

Đó là mối đau thương giữa trời đất của con người ta không cứ ở phương nào. Hay thì hay thật, đẹp thì đẹp thật, nhưng làm sao người đọc được thấy mối tình mới nẩy nở, để có những cảm giác say sưa thì không.

 

Huy Cận hơn Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu ở sự chọn chữ, lựa câu, ở sự hiểu cái ma lực của mỗi chữ, như:

 

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy giòng.

              (Tràng giang, tr.52)

 

Nai cao gót lẫn trong mù,

Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.

                  (Thu rừng, tr.101)

 

nhưng lại thua Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu về thành thực.

 

Hãy đọc Điệu buồn của Huy Cận:

 

Mưa rơi trên sân,

Mái nhà nghiêng dần…

Ôi buồn trời mưa!

Nhìn trăm sao buồn

Của mưa trên sân…

Ôi lòng buồn chưa!

Đêm sa xuống gần.

Biết sao nói năng,

Nhớ chi bâng khuâng.

Cửa the gió rình;

Vườn cau nước dâng.

và một “điệu buồn”của Lưu Trọng Lư, bài Mưa:

Mưa mãi mưa hoài!

Lòng biết thương ai!

Trăng lạnh về non không trở lại.

Mưa chi mưa mãi!

Lòng nhớ nhung hoài!

Nào biết nhớ nhung ai!

 

Ta thấy, ở đây, riêng về âm điệu, hai bài thật khác nhau xa.

 

Nếu ai hỏi tôi: thơ Huy Cận thế nào? Tôi sẽ đáp: thơ Huy Cận thanh tao, trong sáng, nhưng kém về thiết tha, thành thật, là những điều cốt yếu trong thơ của Xuân Diệu”…

 

Sau tất cả các bài viết và ý kiến trên, đến lượt Kiều Thanh Quế – nhà phê bình số một của miền Nam đương thời – đã lên tiếng đánh giá về nền thơ đương đại qua bài đọc sách thực sự công phu Nhân đọc Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân (Tri tân, số 134, tháng 3-1944); trong đó có trao đổi, tranh luận, phản biện, lý giải về hiện tượng thơ Huy Cận:

 

“Quyển sách dày dặn cố ghi lại một thời đại thi ca Việt Nam chẵn mười năm 1932-1942…

 

…Nhận thấy Tản Đà và Quách Tấn, kẻ đứng đầu kẻ đứng cuối một thời đại thơ ca Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng chia cảm tưởng với tác giả Thi nhân Việt Nam rằng “các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt”, và thi nhân xứ ta phải quay về dĩ vãng “để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.

 

Có kẻ lầm tưởng mong ước ấy là muốn bắt dòng thơ Việt Nam hiện đại phải quay về thể thơ lục bát của ca dao. Không! quay về dĩ vãng là quay về với tâm hồn của thời xưa, chớ phải đâu quay về các thể cách của thời xưa. Các nhà thơ hiện đại muốn phô diễn những đầu đề mới nào cũng được, miễn phải gây lấy cho câu thơ Việt một cái hồn Việt Nam. Đừng viết một câu thơ Việt để cho người Việt Nam lầm tưởng đó là của một người ngoại quốc mới tập viết quốc văn ta. Tôi không bảo thơ Xuân Diệu, Huy Cận vô giá trị. Tôi cũng nhận thấy trong đó một hơi hớm của tuổi hai mươi bồng bột, nhưng tôi cho rằng đó chỉ là những lời thơ để đọc trong một thời. Rồi thì ta cũng phải yêu mến cái tâm hồn nghìn xưa của nhân dân Việt Nam ta. Tâm hồn ấy chuộng sự sáng sủa và sự du dương. Câu thơ du dương là câu thơ đầy nhạc điệu. Tôi không cho thơ Xuân Diệu, Huy Cận hoàn toàn tối nghĩa, nhưng cũng có lắm câu không được sáng sủa như: Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh (Xuân Diệu), Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng (Huy Cận). Hai động từ trong hai câu thơ ấy “mới” quá, ta chỉ nên dùng trong văn xuôi, đừng nên vội dùng trong văn vần. Vì văn vần là một thể tổng hợp, đã khó hiểu rồi, ta nỡ nào còn cố làm thêm khó hiểu nữa. Vả lại, động từ thêu của Huy Cận còn dễ hiểu hơn động từ rũa của Xuân Diệu, mà người ta có thể hiểu lầm là nguyền rủa, chửi rủa, như ở Nam Kỳ đồng bào ta thường hiểu lầm. Bởi thế nên có một nhà thơ hài hước ở Nam Kỳ nhại câu thơ của Xuân Diệu lại là: Trong vườn sắc đỏ chửi màu xanh.

 

Huy Cận còn hai câu thơ này thật là khó hiểu:

 

Ngàn năm sực tỉnh, lê thê,

Trên thành son nhạt – chiều tê cúi đầu…

 

Chiều tê là chiều gì? Buổi chiều ấy ra làm sao? Người ta bảo vốn Huy Cận viết: “Chiều tê tái sầu”. Xuân Diệu cho viết thế thì rõ ràng quá nên chữa lại “chiều tê cúi đầu” (thuật theo lời Hoài Thanh).

 

Tôi cũng không bảo thơ Xuân Diệu, Huy Cận thiếu hẳn nhạc điệu. Nhưng nhạc điệu của thơ hai ông, tôi thấy nó làm sao ấy! Ta chỉ thích nghe nhạc điệu ấy trong một thời thôi. Rồi thì sao ta cũng phải thích nhạc điệu của hơi thơ Đường hơn. Vì lẽ ấy mà tôi trọng cái nhạc điệu trong thơ Quách Tấn, Thái Can, Leiba, Tchya hơn nhạc điệu trong thơ hai ông”…

 

So với nhiều tác gia Thơ mới, thơ Huy Cận được người đương thời chào đón nồng nhiệt và thống nhất trong chiều hướng đánh giá, khẳng định, vinh danh. Về cơ bản, những điểm đặc sắc trong thế giới nghệ thuật, lối cảm, lối nghĩ, nội dung và hình thức câu thơ Huy Cận đều đã được khai thác sâu sắc. Điều này cho thấy sự đồng cảm cũng như khả năng tiếp nhận của bạn đọc và giới phê bình đương thời Thơ mới thực sự khách quan, đạt tới trình độ cao trong việc thẩm định các giá trị thơ Huy Cận

 

 

TIN LIÊN QUAN:

 

>> Một góc nhìn Xuân Diệu – Tôn Phương Lan

>> Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Huy Cận – Nguyễn Hữu Sơn – Kỳ 1

>> Nguyễn Tất Nhiên – Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá – Ngô Nguyên Nghiễm

>> “Thay áo” của Trịnh Công Lộc – Đặng Huy Giang

>> Sắc màu truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ – Bùi Việt Thắng

>> Ngược lối với thơ Phan Hoàng – Mai Thị Liên Giang

>> Văn học và đời sống – Võ Chí Nhất

>> Cái chết của nhà thơ – Võ Tấn Cường

>> Nhân đọc trường ca của Phạm Công Trứ – Ngô Mạnh Tuấn

>> Nguyễn Đức Phú Thọ những vần thơ lay động – Hoàng Thị Thu Thuỷ

>> Một nét bí ẩn thơ Bích Khê – Lê Thành Nghị

 

 

>> XEM TIẾP NGHIÊN CỨU – LÝ LUẬN PHÊ BÌNH CỦA TÁC GIẢ KHÁC…