Nhà thơ Thanh Tùng và mối tình thời hoa đỏ

840

Tuy Hòa

(Vanchuongphuongnam.vn) – Những câu hát “mỗi mùa hoa đỏ về, hoa như mưa rơi rơi” đã trở nên rất quen thuộc trong đời sống cộng đồng. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng đã phổ thơ của nhà thơ Thanh Tùng và đưa đến cho công chúng những lời thì thầm đầy xao xuyến về tình yêu đôi lứa nồng nàn như mùa hè khao khát đỏ bừng từng cánh phượng. Thế nhưng, những giai điệu không thể bộc lộ hết được tâm tư xa vắng mang dấu vết thân phận của hai nhân vật trong bài thơ.

Nhà thơ Thanh Tùng

Nhà thơ Thanh Tùng (1935-2017) quê gốc Nam Định nhưng sinh trưởng và gắn bó với Hải Phòng suốt 60 năm ròng rã buồn vui. Ông làm thầy giáo dạy thể dục, rồi làm công nhân ở thành phố Cảng. Tình yêu của nhà thơ Thanh Tùng với Hải Phòng luôn đầy ắp trong những câu thơ cuồng nhiệt và bay bổng: “Thành phố gầy như ngực mẹ tôi/ Tôi không dám mạnh chân sợ mặt đường long nhựa/ Không dám cả cười buông thả/ Sợ bao vết thương bom đạn vẫn chưa lành/ Bờ sông khúc khuỷu hoang sơ/ Nham nhở cỏ xanh tràn mép phố/ Những cô gái thập thò sau khung cửa/ Ánh mắt như màu rượu đã lâu ngày…”. Ở Hải Phòng, nhà thơ Thanh Tùng đã có một thời trai trẻ sôi nổi và cũng có đã một mối duyên khắc cốt ghi tâm.
Người phụ nữ Thanh Nhàn nổi tiếng nhan sắc ở Hải Phòng. Đã trải qua một đời chồng và đã có con riêng, nhưng Thanh Nhàn vẫn đẹp rực rỡ trong mắt những người đàn ông quen sóng quen gió trên cảng biển quê hương. Nhà thơ Thanh Tùng gặp Thanh Nhàn khi ông cũng đã qua tuổi 30. Một gã đàn ông lam lũ và chân thành, một người đàn bà đằm thắm và lãng mạn. Họ là hai thái cực, họ là hai thế giới, họ là hai mảnh rời chông chênh. Một lần hạnh ngộ đã hút họ vào nhau, như một cách Thượng Đế gắn kết và xoa dịu cho hai trái tim nhọc nhằm rung cảm.

Người phụ nữ Thanh Nhàn yêu thơ, nhưng không thích những câu thơ thô ráp kiểu “trong tiếng búa vang lên bao định lý” của gã công nhân Thanh Tùng. Tuy nhiên, Thanh Nhàn yêu Thanh Tùng bởi ông có sự gân guốc và sự đắm đuối mà những người đàn ông khác không có được. Quan trọng hơn, Thanh Tùng đến với Thanh Nhàn bằng một thái độ tôn thờ hết mực. Thanh Tùng không gắng gượng viết những câu thơ vần điệu du dương để chiều chuộng quan niệm thẩm mỹ của Thanh Nhàn, mà ông tận tuỵ mang đến cho Thanh Nhàn những hành động bảo bọc và cuồng si hết mực.

Đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, bom Mỹ vẫn rình rập bắn phá ngày đêm khắp miền Bắc. Cuộc sống vừa lao động vừa chiến đấu đầy cam go, nhưng không thể nào ngăn được Thanh Tùng thể hiện cảm xúc dâng trào với Thanh Nhàn. Ông làm việc ở Hải Phòng, còn bà làm việc ở Quảng Ninh, cách nhau gần 60 cây số. Cứ tiếng kẻng tan ca ngày cuối tuần vang lên, thì Thanh Tùng lập tức lao đi tìm Thanh Nhàn. Thuở đó, giao thông đâu có thuận lợi như bây giờ. Thanh Tùng thường mượn xe đạp của đạo diễn phim tài liệu Đào Trọng Khánh để sang Quảng Ninh thăm Thanh Nhàn. Có hôm, Thanh Tùng chậm chân, chiếc xe đạp đã bị người khác sử dụng rồi. Lẽ thường, thì ai cũng hình dung được một gã đàn ông sẽ não nề lê gót về nhà trong ngổn ngang dằn vặt. Thế nhưng, Thanh Tùng thì khác, không có xe đạp thì ông dùng… đôi chân. Thanh Tùng đã chạy bộ 60 cây số sang Quảng Ninh. Đến cổng nhà máy của Thanh Nhàn, thì nghe bảo vệ báo tin Thanh Nhàn đã đạp xe về Hải Phòng rồi. Thanh Tùng đang thở hồng hộc, lập tức quay đầu lại, tiếp tục chạy bộ về Hải Phòng. Tổng cộng, để có dịp cuối tuần gặp mặt người đàn bà mình yêu thương, Thanh Tùng đã chạy bộ đúng 120 cây số.

Cú maratong theo tiếng gọi nhân tình của nhà thơ Thanh Tùng trở thành một huyền thoại trong giới làm thơ Hải Phòng. Nhà thơ Thanh Tùng thì cười vô tư xem như một chuyện nhỏ, nhưng đạo diễn phim tài liệu Đào Trọng Khánh thì kinh hãi lắm, nên chốt hạ: “Từ nay, cuối tuần tao sẽ xích xe đạp vào góc nhà, không cho ai đụng tới. Chỉ ưu tiên cho mày đi thăm Thanh Nhàn thôi. Mày đừng chạy bộ nữa, khiếp quá!”. Tuy nhiên, sau cuộc chạy bộ đáng ghi vào kỷ lục tình ái kia, nhà thơ Thanh Tùng không phải trổ tài của vận động viên điền kinh nữa, vì Thanh Nhàn đã chuyển luôn về Hải Phòng để làm vợ ông và sinh cho ông hai đứa con, một trai một gái.

Mùa hè năm 1972, với hạnh phúc giản dị trong mái ấm nhỏ bé, Thanh Tùng đã viết bài thơ “Thời hoa đỏ” để tặng vợ mình. Những câu thơ trào ra từ rạo rực hiện tại và thổn thức quá khứ: “Dưới màu hoa như lửa cháy khát khoa/ Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng/ Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tĩnh/ Chẳng cho long ta yên/ Anh mải mê về một màu mây xa/ Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ/ Về cái vẻ thần kỳ của ngày xưa/ Em hát một câu thơ cũ/ Cái say mê một thời thiếu nữ/ Mỗi mùa hoa đỏ về/ Hoa như mưa rơi rơi/ Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi/ Như máu ứa một thời trai trẻ…”. Trong bài thơ “Thời hoa đỏ”, Thanh Tùng chia sẻ dùm Thanh Nhàn cả những mất mát riêng rư. Vì vậy, giá trị đích thực của “Thời hoa đỏ” không nhằm ca ngợi tình yêu đẹp đẽ giữa mùa hè chói chang hy vọng, mà chủ yếu bày tỏ sự độ lượng của tình nhân dành cho tình nhân sau bao nhiêu mất mát và tổn thương: “Trong câu thơ của em, anh không có mặt/ Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết/ Anh đâu buồn mà chỉ tiếc/ Em không đi hết những ngày đắm say/ Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ/ Không cho ai có thể lạnh tanh/ Hoa đặt vào lòng ta những vệt đỏ/ Như vết xước của trái tim”.

Tình yêu với Thanh Nhàn là một miền cảm xúc thiêng liêng của Thanh Tùng. Tình yêu ấy quá lớn lao đối với ông. Tình yêu ấy khiến ông thăng hoa và tình yêu ấy cũng khiến ông chới với. Thanh Tùng dâng hiến tất cả cho tình yêu ấy, nhưng ông không có cách nào níu giữ tình yêu ấy. Sự có mặt của hai đứa con Thi và Hương, cũng không thể nào giúp Thanh Tùng dùng… thơ để chống đỡ sự đổ vỡ khó lường: “Sau bài hát rồi em lặng im/ Cái lặng im rực màu hoa đỏ/ Anh hiểu mình vô nghĩa đi bên em”.

Tình yêu có lối riêng để tìm đến, thì tình yêu cũng có đường riêng để ra đi. Chẳng thể rạch ròi ai có lỗi, khi mỗi người đều mang một trái tim đau khổ với những nhịp đập rối bời. Cuộc sống vợ chồng ngắn ngủi như một cái chớp mắt xót xa của số phận. Chia tay Thanh Nhàn, bao nhiêu hụt hẫng và cay đắng cừ dày vò tâm hồn thi sĩ của Thanh Tùng. Nghẹn ngào trong nước mắt lặng thầm và loay hoay trong men rượu u uất, Thanh Tùng vụt ra những câu thơ an ủi chính mình những ngày thất tình: “Em đã để lại trong tim tôi một mũi dao/ Thỉnh thoảng lại nhấn sâu thêm một chút/ Tôi mang nó suốt đời còn em thì không biết/ Những mùa thu ướt máu vẫn đi về/ Bây giờ mọi thứ thuốc đều vô hiệu/ Tôi chữa bằng rượu thôi/ Hết rượu rồi tôi uống cả mùa thu/ Cả những chiều đông lướt thướt/ Xong, lại tự nhấn sâu thêm nữa/ Mũi dao ngày xưa/ Nhưng có sao khi trái tim tôi cũng thành bình rượu/ Cả mũi dao kia cũng đã say mèm”.

Không còn tình yêu lớn của Thanh Nhàn bên cạnh nữa, gió từ sông Cấm thổi từng cơn lạnh giá vào miền yêu của nhà thơ Thanh Tùng. Ông từ giã nghề thợ, chuyển sang buôn bán vỉa hè để nuôi hai con. Thậm chí, có lúc ông phải làm áp tải xe hàng để nuôi hai con. Cơm thiu canh cặn không phải là điều Thanh Tùng phải chua chát, khi ông đã mất một nguồn thơ thảng thốt riêng mình. Thanh Tùng có trách giận gì không? Hoàn toàn không! Nhà thơ Thanh Tùng chỉ dõi theo vợ cũ, biết ơn người đã cưu mang Thanh Nhàn và nổi đoá với kẻ đã phụ bạc Thanh Nhàn.

Năm 1989, khi nhà thơ Thanh Tùng đang dự Đại hội Hội nhà văn VN tại Hà Nội thì nghe tin Thanh Nhàn qua đời trong đơn chiếc ở Hòn Gai- Quảng Ninh. Ông bỏ hết những tụ bạ văn chương mà ông luôn thèm thuồng, để quay về lo tang lễ cho vợ cũ. Khoảnh khắc ấy được ông viết: “Kìa mắt em trong gió khóc ròng ròng/ Sóng cứ thốc từng hồi như nấc/ Biển cứ gào như vết thương không sao lành được/ Gió vỡ về khắp phía tiếng ngày xưa”.

Hình ảnh người vợ cũ Thanh Nhàn vẫn ở trong trái tim Thanh Tùng đến cuối đời. Người đàn bà của “Thời hoa đỏ” xa khuất, vẫn trở lại trong một bài thơ khác của ông có tên là “Sau thời hoa đỏ” nhiều vương vấn: “Em đã xa lâu và ở lại/ Nơi triền núi chập chờn sương khói vỡ/ Hoa rung hoang ướt nặng những hoàng hôn/ Em xa đã lâu/ Máu vẫn đập trong lời thơ cũ/ Để tình yêu gieo buồn vào muôn thuở/ Bởi chúng mình sống chết hoá thành thơ/ Bão táp đi qua/ Mảnh sắc đầy nhà/ Tim anh đập phía nào cũng xót/ Như câu thơ mỗi lần ai hát/ Lại một lần khóc ngày xưa/ Lại một lần anh cưới em về/ Lại một lần thời hoa đỏ/ Trải vô cùng đến tận cõi đam mê”./.