Tảo mộ, nét đẹp văn hóa tâm linh – Tản văn của Nguyễn Đại Duẫn

550

(Vanchuongphuongnam.vn) – Hằng năm, cứ đến tháng Bảy Âm lịch là quê tôi tổ chức đi tảo mộ. Không biết có tự bao giờ, việc tảo mộ quê tôi đã trở thành một thông lệ được truyền từ đời này sang đời khác. Mặc dù làm việc ở đâu, nghề nghiệp gì, đến ngày tảo mộ mọi thành viên trong gia đình tạm gác công việc để về cùng lo toan tảo mộ. Vào dịp này, mọi người thăm viếng mồ mả, sửa sang, làm sạch đẹp nơi an nghỉ của tổ tiên, ông bà, người thân, tưởng nhớ người đã khuất.

Nhà văn Nguyễn Đại Duẫn 

Khi còn bé, tôi lẽo đẽo theo cha, cùng các lão cao niên, các bác, các chú… cùng mấy anh chị ngang lứa trong họ đi tảo mộ. Chúng tôi thích lắm, thích nhất là được ông trưởng họ cho cầm con cún dùng để thắp hương. Theo các cụ truyền lại, người nào được cầm con cún tức là người cầm ánh sáng đưa đường nên sau này làm ăn thành đạt.

Ngày đó, đi tảo mộ mọi người chuẩn bị cuốc, dao rựa để phát cỏ dại, chặt cây quanh mộ, vun lại những nấm mộ bị mưa lụt xói lở. Ở quê tôi, những người đã khuất được mai táng ở cồn đất cao ráo, không có nước ứ đọng nên long mạch không bị ảnh hưởng.

Ngày tảo mộ, người lớn thì dẫy cỏ, chặt cây, vun nấm. Trẻ con chúng tôi thì đi đào hang dế, bắt chim, hái sim, hái mốc hay trèo hái đa… Ngày tảo mộ là một ngày thỏa  thích của lũ  trẻ chúng  tôi, tha hồ chạy nhảy, trốn tìm. Thời đó, nghĩa địa là nơi cây cối um tùm rậm rạp, hoang vu. Nhiều cây cổ thụ to bằng người ôm. Trên các hốc cây có chim sáo, chim cu làm tổ. Nếu trẻ con chưa đến nơi này lần nào thì dễ bị lạc và sợ ma lắm. Chạy nhảy, chơi mệt mấy anh em chúng tôi tìm đám cỏ nằm nghỉ nghe tiếng dế kêu, chim hót chờ các bậc cao niên, trưởng họ cúng xong để được phần chuối, bưởi hậu tàn.

Trong những năm chiến tranh, chỉ có các bác, các chú đi tảo mộ từ sáng sớm. Vì sợ bom rơi đạn lạc nên không cho chúng tôi đi. Cha tôi, cũng như các anh thanh niên trai tráng trong làng đã lên đường nhập ngũ vào Nam đánh giặc. Mỗi lần, các bác, các chú đi tảo mộ là bà nội tôi bảo họ khấn vái xin tổ tiên cho cha tôi và các anh tránh được “mũi tên, hòn đạn”, chiến thắng trở về.

Bây giờ không còn như xưa, các ngôi mộ giờ đã được đưa vào lăng, xây bằng xi măng, lát đá hoa hay quyét sơn màu rất đẹp. Nhiều họ phái có điều kiện người ta còn vẽ rồng rắn, hay bắt hình long, li, qui, phụng rất công phu. Trẻ con không còn có nơi để chạy nhảy, bắt chim, bắt dế, không còn chờ đợi phần quà hậu tàn như chúng tôi ngày xưa. Các cây cổ thụ một phần do già cỗi, phần bị người ta chặt bỏ để xây lăng, nên giờ không còn chỗ cho các lão cụ tránh nắng, tâm tư. Mọi người gặp nhau hỏi thăm tình hình làm ăn, sức khỏe, nhất là người đi xa về. Các cụ thắp hương, cúng tế tổ tiên.

Xong việc thắp hương ngoài lăng mộ, mọi người về nhà thờ họ để cúng tế, mời tổ tiên, ông bà về nhà. Sau phần cúng tế, ông trưởng họ lên giới thiệu về gia phả dòng họ, gốc tích ông bà, tổ tiên. Rồi ông thay mặt dòng họ đánh giá hoạt động xã hội của các gia đình; khen thưởng cho các gia đình có con cháu học hành thành đạt; kêu gọi đóng góp tu sửa nhà thờ, đóng góp khuyến học họ tộc; động viên mọi người đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau tiến bộ, làm ăn phát đạt.

Năm nay, do tình hình covid diễn biến phức tạp, tôi không dẫn con cháu về tảo mộ như mọi năm mà về một mình để thực hiện Chỉ thị 15, 16 của Thủ tướng Chính phủ. Mọi năm, ngày này là ngày hội làng, từ sáng sớm, mọi người đủ độ tuổi, thành phần, áo quần chỉnh tề có mặt tại nghĩa địa khi mặt trời lên độ cây sào. Xe máy, xe ô tô chật cả lối đi. Năm nay, nghĩa địa thưa thớt bóng người, người đi xa không về được, người ở gần cũng thực hiện giãn cách xã hội. Mọi người đeo khẩu trang nên chẳng nhận ra nhau, chỉ nhận nhau qua giọng nói. Lòng ai cũng thấy nặng trĩu nỗi lo lắng. Chỉ tại con covid mà làm cho không khí lễ hội trầm lắng xuống.

Dù có được về quê hay đang ở đâu, trong lòng mỗi người quê tôi tảo mộ đang còn trong tiềm thức, đã trở thành nét truyền thống tốt đẹp. Đó cũng là thể hiện  tình cảm hướng về với nguồn cội. Các cụ thường nói: “Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông” là vậy. Theo quan niệm người xưa, trong thời khắc thiêng liêng của việc hương đèn cúng tế, âm dương giao hòa, con người có thể thả hồn với thiên nhiên và cảm ứng được với tổ tiên, những người đã khuất. Việc tảo mộ không chỉ phản ánh mối tương quan xã hội, giữa những người còn sống với nhau mà còn là bổn phận của con cháu đối với tổ tông, ông bà, người thân khuất mặt. Tảo mộ là dịp con cháu đến chăm sóc mộ phần, một nét đẹp văn hóa thường được người dân Việt chú ý coi trọng, gìn giữ từ bao đời nay. Truyền thống tâm linh người Việt tin rằng, khi tảo mộ sửa sang mới mẻ nơi an nghỉ của tổ tông, ông bà… làm cho âm hồn người đã khuất được thỏa mãn mà phù hộ cho người sống được thuận lợi về làm ăn, phát tài, sức khỏe… Tảo mộ còn thể hể hiện lòng kính trọng đối với các bậc tổ tiên và đấng sinh thành đã khuất. Tục tảo mộ hằng năm, ngoài một phong tục phổ biến của người dân khắp mọi miền đất nước, còn là một hoạt động mang tính dòng tộc rõ nét.

Giữ gìn phong tục tảo mộ là giữ gìn giá trị đạo nghĩa làm người, tạo nên nếp nhà, gia phong, cũng là góp phần tạo nên nét văn hóa làng quê, thể hiện nét đẹp văn hóa tâm linh và bảo tồn được hồn thiêng của văn hoá dân tộc.

N.Đ.D

Hội viên Hội VHNT Quảng Bình