Ửng sắc mây lam hoàng hôn

530

Nguyễn Nhã Tiên

(Vanchuongphuong.vn) – Mượn câu thơ của nhà thơ Phan Duy Nhân viết đề từ cho chính bài thơ “không đề” của anh: Trái tim như hạt gieo rồi, để tôi lại viết về thi sĩ. Tôi cũng không rõ lắm bài thơ “Không đề” anh Phan Duy Nhân viết ra từ bao giờ, nhưng có lẽ, chỉ cần một câu thơ như thế (thực ra thì Phan Duy Nhân đề từ cho bài thơ này bằng hai câu thơ lục bát: Trái tim như hạt gieo rồi/ Mùa xuân về chậm còn ai nãy mầm), thì đấy có thể là lời đề từ cho toàn bộ cuộc đời thơ Phan Duy Nhân, nói khác hơn cũng có thể là từ buổi Mẹ khai sinh ra cuộc đời này đứa con thuộc giống “Loài thi sĩ”.

 

Nhà thơ Phan Duy Nhân (bên trái) và nhà thơ Nguyễn Nhã Tiên

“Loài thi sĩ” là tôi mượn ý của thi sĩ tài hoa mệnh bạc Hàn Mặc Tử, như trong một lá thư ông viết gửi cho người bạn thân của mình là Hoàng Trọng Miên (bài Quan niệm về thơ): “…Đức chúa trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ màu nhiệm… Vì thế trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần” và “loài người”, Đức chúa trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “Loài thi sĩ”. Loài này là những bông hoa rất quý và hiếm, sinh ra đời với một sứ mệnh rất thiêng liêng: phải biết tận hưởng những công trình châu báu…, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch”.

Lược trích có vẻ dông dài lá thư của Hàn thi sĩ là cốt để phần nào gợi mở đến sự huyền nhiệm trong thơ, một thứ huyền nhiệm không nhằm nói đến tính chất tôn giáo, mà như tinh thần triết học Marcel, là để soi rọi về tha thể, tha nhân hay nhân vị con người. Mà đã là huyền nhiệm thì không thể định nghĩa. Khi Paul Valéry nói rằng: “Thượng đế hào phóng ban phát cho ta câu thơ đầu, những câu thơ tiếp theo ta phải tự làm lấy”, thì “Thượng đế” trong ý niệm đấy cũng nhằm nói lên sự huyền nhiệm. Thượng đế của Valéry hay Đức chúa trời của Hàn Mặc Tử trong trường hợp này là tính từ biểu đạt cái thế giới thăm thẳm, vô cùng, vô hạn. Và, chỉ may ra “loài thi sĩ” kia, họ là những thiên sứ luôn ẩn chứa trong tâm hồn cái tố chất bẩm sinh bí mật mới có cái năng lực bí nhiệm để “trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch”.  “Trái tim như hạt gieo rồi” của Phan Duy Nhân chính là thứ bí nhiệm trút vào linh hồn người ta những nguồn đê mê ấy. Không phải chỉ là câu thơ đề từ, hoặc có thể là bài thơ “Không đề” này thôi đâu, mà là bề bộn những mùa màng hoa trái Phan Duy Nhân  đã gieo cấy từ hạt giống của trái tim mình. Nhất là nhiều bài thơ anh viết vào thời trai tráng thanh xuân đăng thường xuyên trên tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn) vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, cho đến bây giờ đã hơn nữa thế kỷ qua, vậy mà lớp học sinh – sinh viên thời ấy, biết bao người còn thuộc nằm lòng. Hễ mỗi khi nhắc đến Phan Duy Nhân là hầu như người ta nhớ đến thơ anh, nhớ thêm một bút hiệu Dương Phù Sao, nhớ đến một Phan Duy Nhân thi sĩ hơn bất cứ nhớ điều gì khác về anh. Khi mở lời thư ngỏ ý tìm/ Mùa xuân trên má thẹn êm đềm/ Hai vai anh đầy sương khói/ Lòng đã hoang vu, mộng đã chìm/ Anh chỉ còn đầy hơi rượu ngọt/ Cùng thơ tâm sự mắt du thuyền/ Tương lai thôi hãy mềm như lụa/ Mà gói đời anh trong áo em (Thơ cầu nguyện. Bách Khoa 124.01/03/1962). Thơ ấy quả là rượu ngọt! Một thứ rượu ngọt được chưng cất bởi “thượng đế” (VaLéry), cộng thêm cái năng lực “phu chữ” hào hoa – một phẩm chất thẩm mĩ trong lao động nghệ thuật của Phan Duy Nhân mà thành. Cũng có thể nói, đây là đặc điểm nghệ thuật thơ Phan Duy Nhân xuyên suốt nhiều sáng tác của anh trong giai đoạn này, cố nhiên là không phải sáng tác nào cũng đạt được hiệu quả trở thành thứ men say hoan lạc cho người thưởng ngoạn. Nhưng, còn gì hơn thước đo thời gian đã thực sự chứng minh sức sống thơ Phan Duy Nhân trong lòng công chúng, một sức sống đẹp lung linh huyền thoại mà có khi chính tác giả của nó cũng không ngờ tới.

Hẳn là một chiều cuối năm nào đó của thời trai trẻ, là tôi đoán chừng ở độ tuổi sinh viên, hay mới ra trường, trong cái tâm thế bồn chồn rời nhà trọ của một lữ khách, Phan Duy Nhân đã viết bài thơ “Cuối năm rời nhà trọ”: Lòng trống không mà mưa cuối năm. Tre câm cam chịu nỗi cơ hàn/ Chăn đơn đời ngủ không cần dậy/ Tay vắt ngang mày đợi bóng trăng/ Này lối thầm xưa ngùi kỷ niệm/ Này vuông cửa sổ ngắm chiều rơi/ Mai sương như khói lên đầu ngõ/ Giọt nến đêm dài thêm tủi thôi/ Cau vút thân vời cao chín bậc/ Thầm ru chim phượng ngủ trong lòng/ Bạn bè mộng thấy dăm ba bận/ Ai biết ta nằm đây nữa không?/ Mơ ước xa như người đã khuất/ Cam thua cau mặt lật con bài/ Mưa chiều tượng mỏi im như Phật/ Từng giọt buồn rời qua kẻ tay/ Trang sách, vuông khăn, vài vạt áo/ Vò lòng cúi mặt bước chân ra/ Chỉ cần mưa ngớt cho đôi chút/ Trời rộng xin đừng gió thổi qua! (Bách Khoa. 145. 15/01/63). Đọc hết bài thơ ta thấy toát lên một sắc thái lẫn phong vị cổ điển. Ngôn từ đẹp mà giản dị, nhạc tính mang mác nỗi buồn, tạo ra hiệu quả vời vợi u hoài giữa thanh âm và ngữ nghĩa, dễ gieo vào lòng con người ta một nỗi cảm hoài xa vắng mênh mông. Một bài thơ ra đời trong một khoảnh khắc như thế, ấy vậy mà nó trở thành bạn đường cho bao nhiêu người yêu thơ, vượt qua chiến tranh cho tới hòa bình dằng dặc đã quá năm mươi năm. Nhưng nào phải ngần ấy đâu, thơ Phan Duy Nhân, còn có những tập: “ Thơ cho Hà, Ngậm ngải tìm trầm…” dù chưa xuất bản, chỉ đăng rải rác trên các tạp chí, nhưng dấu ấn của một thời thanh xuân đẹp đẽ ấy đã là những cái mốc son thơ in dấu tài hoa của một thi sĩ trên văn đàn miền Nam lúc bấy giờ. Trong những cái mốc son thơ ấy, không thể không nhắc tới mảng đề tài anh viết về chiến tranh. Cũng như một số các nhà thơ nổi tiếng khác ở miền Nam đồng thời với Phan Duy Nhân vào những năm tháng đất nước còn chiến tranh, thì nguồn mạch ưu tư thân phận, nỗi đau xứ sở chia cắt, đạn bom tàn phá từng ngày tan hoang…, tất cả cứa vào trái tim thi sĩ chảy máu thành thơ: Giây phút ấy tôi cầm tay nỗi chết/ Sau lưng anh phường phố vẫn điêu tàn/ Máu một dòng rơi hờn như giọt đá/ Thơ một lời dội lại tiếng kêu vang (Đường bay của thơ. Bách Khoa 123). Lớp tuổi trẻ hoa niên chúng tôi vào thời ấy lớn lên đều ít nhiều ảnh hưởng đến dòng thơ này. Chưa đủ sức, hoặc không thể viết thành thơ thì đọc thơ các anh vang vang đây đó, như bày tỏ một khát vọng, một tình yêu, một nhen nhóm lửa, có lẽ là từ vô thức, giống như trẻ con biết vỗ về nỗi buồn đau của mẹ. Ví như bài “Thơ cho mẹ và chị” của Phan Duy Nhân: Đầy nước mắt đi trong chiều biển động/ Thân san hô sóng vỗ một đời tròn/ Trong cây tùng gặp bão cũng cong lưng/ Đời kiêu mạn chẳng còn tâm sự với/ Con nhớ lại sắc se lời mẹ dạy/ Những đêm qua ngõ hẹp phố phường sâu/ Đầu gối trên tay nghe đường máu chạy/ Trong tim con ngựa mỏi cũng quay đầu/ Những buổi sáng nằm vùi trên gác trọ/ Những chiều hôm mong đợi chẳng ai về/ Tình thuở trước đắp cao dần nấm mộ/ Trong lòng con cỏ mọc đã vàng hoe…

Tôi vẫn thường hay tuân thủ theo cái cách mà Milan Kundera đã viết trong “Nghệ thuật tiểu thuyết” rằng: biết về tác giả sẽ chẳng làm khác đi giá trị tác phẩm (cho dù là thơ hay bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác). Nhưng với nhà thơ Phan Duy Nhân thì tôi không thể không biết chút gì về anh, nhất là vào cái buổi hoàng hôn tuổi tác của anh. Mà quả, cũng chỉ bấy nhiêu thời gian, bởi cuộc đời sóng gió lên ghềnh xuống thác của Phan Duy Nhân tôi nào có biết gì nhiều ngoài những bài thơ và mấy dòng tiểu sử sơ sài, như người ta từng biết về Phan Duy Nhân tên thật là Phan Chánh Dinh, và các bút hiệu: Dương Phù Sao, Nguyễn Chính, Thiết Sử, cho đến năm sinh, quê quán, nghề nghiệp…

Nhưng có lẽ vào những tháng ngày nhẹ tênh rong chơi dưới ngọn Kim Sơn – Ngũ Hành Sơn, hẳn ít người biết tới anh. Nếu như ngày xưa tôi biết về anh là một thi sĩ, thì bây giờ với tôi, buổi anh trở về vẫn nguyên vẹn một con người thi sĩ. Câu thơ Trái tim như hạt gieo rồi có chút gì định mệnh chăng, để mạch thơ anh ngày xưa nối liền kịp vào lúc ửng một sắc mây chiều. Thân anh một sớm lui về/ Chỉ còn tro bụi tứ bề hỏa thiêu ( Bách Khoa. 140).

Dường như khi cởi bỏ áo mão công danh rồi, về hưu rồi, Phan Duy Nhân cũng chẳng chịu ngồi yên, anh tham gia (cũng có khi là người tổ chức) các hoạt động xã hội nơi này, nơi khác. Có lần anh bảo với tôi: “Bà Hà (tức vợ anh), đã sưu tầm tập hợp lại gần 600 bài thơ của mình rồi”. Nhưng rồi vẫn chưa thấy anh in ấn hay làm tuyển cho mình. Khổ nỗi bệnh tật thường xuyên, anh phải ăn uống kiêng khem gạo lức muối mè từng bữa. Hình như những đồng lương hưu anh để hết cho vợ con, nên có lúc tiền xăng để chạy xe Honda trên đường, tôi hoặc người quen nào đó phải trả cho anh. Cũng có ngày vì chán cái không gian rêu lạnh ở chùa hay sao không biết, anh ghé vào nhà tôi ở lại suốt ngày. Nhà tôi các cháu đi làm việc thường vắng, nên có những buổi trưa tôi thường đưa anh ra mấy cái quán cóc chỗ siêu thị Bài Thơ ăn trưa ở đó. Những bữa ăn cũng vô cùng đạm bạc, anh ăn vài lưng chén cơm là cùng. Một lần tôi và anh uống cafe sáng với thầy Huệ Vinh, hôm ấy nhìn màu da anh xanh tái khác thường, tôi nói với anh: Mẹ đã sinh anh ra làm thi sĩ, bây giờ đã qua chốn quan trường, anh còn bao sức lực thì cứ dốc vào thơ may ra còn lưu lại chút gì, chứ cứ lang thang như thế này chẳng vào đâu, mà đổ bệnh xuống chẳng ai chăm sóc. Thầy Huệ Vinh cũng góp vào: “lại còn trong túi chẳng có đồng nào mới là cực”. Nghe tôi và thầy Huệ Vinh nói, anh cười như trẻ thơ chẳng nói lại lời nào.

 Chùa Quán Thế Âm nằm dưới chân ngọn Kim Sơn, thầy Huệ Vinh cũng dành riêng cho anh một phòng. Hễ đi về Sài Gòn với vợ con thì thôi, ra lại Đà Nẵng thì cái “thiền thất” bé xíu đấy là một cõi đi về của anh. Nhìn anh Phan Duy Nhân lúc nào cũng mặc bộ nhật bình nâu sòng lui cui vào ra chùa dưới bóng núi trông cứ như… một thiền sư. Có lẽ đấy là hình ảnh cuối cùng của anh khắc họa vào bóng núi Ngũ Hành này trước khi lặng lẽ đi về cõi hư vô vĩnh viễn. Riêng tôi, trong cái trí nhớ vốn thường hoang vu của mình, cứ mỗi khi có dịp chạy về chùa lang thang dưới ngọn Kim Sơn, giữa vô vàn mây lam ửng lên vào những chiều vắng, tôi lại mơ hồ đến chân dung một thi sĩ. Vọng tưởng hay là gì tôi không rõ, nhưng đấy quả là hình ảnh đẹp, nó cũng như thanh âm bài thơ anh viết còn vang hưởng trong những ngọn gió qua đây. Hay cũng có thể gọi đấy là sắc mây chiều ửng ráng bất tuyệt một hoàng hôn. Tràn đầy mà rổng không/ Biển vô lượng thủy triều/ Đường về tâm bất động/ Tuyệt chiêu là vô chiêu/ Đã thương đời vạn dặm/ Vân du vượt núi đèo/ Thôi hòa lòng với bụi/ Thanh tịnh vầng trăng treo… !

N.N.T