“Nước mắt màu xanh thẫm” lấp một khoảng trống trong văn học viết về Tây Nguyên

1002

Đặng Bá Tiến  

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nước mắt màu xanh thẫm là một lối nói ẩn dụ về sự mất mát của rừng xanh, của văn hóa bản địa, của nước mắt chảy ra từ thăm thẳm gan ruột người dân. Đây thực sự là một thông điệp, một lời cảnh báo mạnh mẽ đối với các ngành, các cấp trong việc triển khai thực hiện các dự án ở Tây Nguyên, đặc biệt các dự án phải di dời dân.

       Nhân đọc tiểu thuyết Nước mắt màu xanh thẫm – NXB Hội Nhà văn, 2015 – của Nguyễn Văn Thiện

Sau tập truyện Nắng trước cửa thiên đường (NXB Hội Nhà văn – 2012) giành được nhiều cảm tình của bạn đọc, lần này Nguyễn Văn Thiện tiếp tục cho ra mắt tiểu thuyết Nước mắt màu xanh thẫm. Có thể nói: Đây là một trong vài cuốn sách đáng đọc nhất của văn xuôi Tây Nguyên trong khoảng 10 năm trở lại đây. Vì vậy, nhà thơ Lê Vĩnh Tài đã nói một cách hình ảnh rằng: Nếu ví văn xuôi Đắk Lắk 10 năm qua như mặt hồ thu, dịu dàng nhưng khá buồn tẻ, thì Nước mắt màu xanh thẫm là ngọn dư ba làm xao động cả mặt hồ.

Cái dư ba ở đây chính là nội dung vấn đề được phản ánh, bút pháp mới mẻ, đặc trưng thời gian, không gian rừng, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào Tây Nguyên, ngôn ngữ giàu hình ảnh mang hồn vía bản địa, ôm chứa nhiều cảm xúc. Tất cả những “dư ba” đó được “tắm gội” thấm đẫm từ gan ruột đến da thịt của từng nhân vật, tạo nên số phận của nhân vật, số phận của cộng đồng. Vì vậy tiểu thuyết có sức cuốn hút, người đọc không muốn buông sách khi chưa đọc đến trang cuối cùng.

Điều khiến chúng ta đau đáu và lo lắng cho Tây Nguyên từ nhiều năm nay là tình trạng mất rừng, tình trạng di dân để xây dựng nông – lâm trường, xây dựng các công trình thủy điện… Bên cạnh những nơi đã làm tốt việc tái định cư, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết về hạ tầng kinh tế, văn hóa trước khi đưa dân đến thì vẫn còn nhiều nơi chưa làm tốt, tắc trách với số phận của người dân, khiến đời sống của họ bị đảo lộn, thậm chí mất nguồn sống, một bộ phận cư dân lâm vào cảnh bần cùng, văn hóa bản địa đặc sắc bị biến dạng, mai một, rừng bị tàn phá nặng nề, nhiều nơi không còn rừng. Đây là sự thật đã và đang diễn ra từ nhiều năm nay, bất cứ ai có chút tâm huyết với Tây Nguyên đều không thể không xót xa. Nhưng sự thật đó được phản ánh rất nhạt nhòa trong văn học viết về vùng đất Tây Nguyên mấy chục năm qua. Nước mắt màu xanh thẫm đã lấp được chỗ trống đó. Trong cuốn tiểu thuyết này người đọc sẽ thấy được tâm trạng của người dân buôn Kroa khi phải di dời để làm thủy điện, lập nông trường: “Tiếc là tiếc tiếng suối Kroa chảy róc rách đến quen tai như giọng nói của người thân, nhớ là nhớ gốc cây pơ lang cổ thụ nở hoa đỏ rực như ai đốt lửa mỗi mùa lễ hội, thương là thương khoảng rừng hào phóng cho người bao nhiêu là măng là nấm…” (trang 10), “Cái thủy điện không biết từ đâu đến nằm ngang con suối, giành hết nước hết cá, bây giờ lại cái nông trường đến giành đất trồng cây” (trang 42). Do không tổ chức tốt việc tái định cư cho dân, nên dân bị đói, phải ăn cả bắp giống, phải lên huyện, lên tỉnh xin cứu đói. Có cán bộ đổ cho dân biếng làm. Nhưng người dân thì nghĩ khác: “Buôn Kroa bây giờ ra đói khổ thế này là vì mất bến nước, mất con suối Kroa. Yàng nước bỏ đi, Yàng đất bỏ đi. Yàng rừng cũng đi nốt. Làm sao không nghèo, không đói”. Hẳn đây cũng là lý do để tác giả đặt tên cho tiểu thuyết là Nước mắt màu xanh thẫm – một lối nói ẩn dụ về sự mất mát của rừng xanh, của văn hóa bản địa, của nước mắt chảy ra từ thăm thẳm gan ruột người dân. Đây thực sự là một thông điệp, một lời cảnh báo mạnh mẽ đối với các ngành, các cấp trong việc triển khai thực hiện các dự án ở Tây Nguyên, đặc biệt các dự án phải di dời dân. Muốn Tây Nguyên phát triển ổn định, không thể không quan tâm tới những thông điệp mà tác giả đặt ra trong tiểu thuyết này. Qua đây chúng ta cũng thấy được tính trung thực, thẳng thắn, không né tránh cả những vấn đề gai góc và trách nhiệm công dân của tác giả với vùng đất mà anh đã yêu quý, gắn bó gần 20 năm nay.

Bằng bút pháp hiện thực huyền ảo, Nước mắt màu xanh thẫm vừa cho ta thấy rõ hơn hiện thực ở Tây Nguyên những năm gần đây, vừa dẫn lối cho ta trở về Tây Nguyên xưa với thảo nguyên mênh mông rừng xanh điệp trùng, với những nhóm nhỏ cư dân chỉ có bốn năm nóc nhà quây quần, sống chan hòa với thiên nhiên hoang dã, với những phong tục tập quán không biết đã có từ thời não thời nao… đồng thời chúng ta cũng thấy được cả một giai đoạn bất khuất, hào hùng  đầu thế kỷ 20 của đồng bào Tây Nguyên, họ đã không cam tâm làm nô lệ cho thực dân, dũng cảm, mưu trí đứng lên, sát cánh cùng tù trưởng Nơ Trang Gưh để đánh đuổi quân xâm lược.

Yếu tố hư ảo trong Nước mắt màu xanh thẫm được tác giả vận dụng sáng tạo từ quan niệm luân hồi của người Ê Đê: Con người có linh hồn, sau khi chết linh hồn biến hóa trở thành giọt sương. Từ giọt sương Yàng Aê Diê sẽ cho chuyển kiếp. Ai may mắn được nhập hồn vào đứa trẻ sơ sinh trở lại kiếp người ở ngay chính buôn làng mình. Ai xui xẻo phải đi xa chín núi mười sông. Ai bị trừng phạt phải làm cầm thú hoặc những vật vô tri. Trong  tiểu thuyết này nhân vật Y Liê là người tốt, một thanh niên dũng cảm từng tham gia nghĩa quân Nơ Trang Gưh, từng sáng tạo ra bẫy đá để đánh đuổi “thằng Tây mũi lọ”, bị thằng Juăn một kẻ phản bội buôn làng bắn lén chết, không đợi được sự “sắp xếp” của Yàng Aê Diê để trở lại làm người, Y Liê đã chấp nhận hóa kiếp thành con khỉ Kra để được trở về sống  bên núi Chư Mang cùng với buôn làng. Vì vậy Kra hiểu rõ cả quá khứ (giai đoạn đầu của thế kỷ 20) và hiện tại của vùng đất Chư Mang. Nhờ vậy yếu tố ảo và thực trong tiểu thuyết được trộn lẫn và xuất hiện một cách hợp lý. Ảo nhưng lại rất thực. Tác giả đã tỏ ra là một đầu bếp khéo tay trong pha chế hai nguyên liệu thực – ảo, để người đọc có một món ăn lạ, không chỉ chấp nhận được mà còn thấy ngon miệng.

Trong nghệ thuật viết tiểu thuyết việc xây dựng diện mạo, tính cách nhân vật có vai trò rất quan trọng đối với sự thành công của tác phẩm. Người đọc có thể không còn nhớ nội dung tác phẩm, nhưng những nhân vật điển hình (có diện mạo và cá tính riêng biệt) sẽ còn được nhớ mãi, Chí Phèo (Nam Cao), chị Dậu (Ngô Tất Tố), A Phủ (Tô Hoài), Lão Khúng (Nguyễn Minh Châu… là những ví dụ nổi bật. Trong Nước mắt màu xanh thẫm, Nguyễn Văn Thiện đã xây dựng được một hệ thống nhân vật có số phận, diện mạo, hồn vía khá ấn tượng, như già Âng, Y Đoan, Juăn… nhưng nổi bật nhất là hai nhân vật chính có mặt từ đầu đến cuối tác phẩm: Khỉ Kra và nàng H’Nhi. Khỉ Kra vừa là người hiền, vừa là dũng sĩ, vừa là “sử gia” làng, vừa là hề làng… Dù là khỉ nhưng biết sống chung thủy, nghĩa tình, là kẻ biết hết mọi chuyện lớn bé trong làng dù không nói được, ngôn ngữ giao tiếp chỉ là tiếng kêu kéc kéc. H’Nhi là biểu tượng của người con gái, người phụ nữ Tây Nguyên xinh đẹp, giàu nghị lực, vị tha, dù số phận không may mắn phải chịu nhiều đau khổ (phải lấy anh rể theo phong tục nối dây, sau khi chị gái mất, thậm chí phải làm đĩ để kiếm sống) nhưng lòng luôn luôn hướng thiện, luôn luôn biết sống vì người khác.

Về kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết, ở đầu mỗi phần (như là một chương) của tiểu thuyết, Nguyễn Văn Thiện đã tạo ra sự mới, lạ bằng một “đoạn dẫn” khá li kì, mờ ảo. Đó là câu chuyện giữa hai người “mình” và “ta” về lũ quỷ ăn sỏi trên lòng suối, về chuyện bị quỷ ám… Ngỡ như những “đoạn dẫn” đó lạc lõng với nội dung câu chuyện. Nhưng ngẫm nghĩ kỹ, ta sẽ thấy sự thâm thúy của tác giả, bởi những “đoạn dẫn” đó gợi cho ta nhiều suy ngẫm về những điều khó giải thích của thực tại có liên quan đến những gì đang xảy ra trong cuộc sống mà tiểu thuyết đề cập. Ví dụ: “Mình bảo, khi đôi mắt có vấn đề thì không nhìn thấy được sự thật mà chỉ thấy những ảnh ảo của nó mà thôi” (trang 59); hoặc “Ta run rẩy nghĩ, tội lỗi quá đi mất. Những viên đá cuội bị ăn mất, đến hồn suối, hồn núi cũng bị ăn, ăn cả hồn người nữa!” (trang 114)...

Văn phong trong Nước mắt màu xanh thẫm rất gần với lối nói, lối nghĩ của đồng bào Tây Nguyên. Ví dụ “chân mày chưa kịp đến thì tiếng chuông đã đi trước rồi”, hoặc “đừng vào chuồng dắt bò người ta đi rồi mới bàn chuyện mua bán”… Bạn đọc thích lối văn miêu tả, giàu chất thơ hoặc thích chất sex theo kiểu thời thượng, đọc cuốn tiểu thuyết này cũng sẽ được thưởng thức nhiều trang văn về cảnh thiên nhiên, cảnh “gần gũi” của trai gái khi yêu nhau đầy thú vị. Ví dụ: “Ở Chư Mang mưa đến bất ngờ và tạnh cũng rất nhanh. Lao xao tiếng người đi làm rẫy sớm. Từ dưới thung lũng hơi nước mờ ảo bốc lên. Trong đám hơi trắng mờ ấy, tiếng nước suối róc rách reo vui từ đâu vọng về chừng xa lắm. Bầy chim phí cổ đeo yếm đỏ chuyền cành ríu ran trong vòm cây kơ nia lá xanh óng ánh” (trang 41). Hoặc: “Trên tấm phản giữa lều Y Wen đang nằm, gác đầu lên cặp đùi trắng nõn của H’Nhi, ngủ ngon lành, cặp môi hé mở ngậm hờ hững vào đầu núm vú hồng hồng của H’Nhi. H’Nhi ngồi dựa vào vách cỏ, bộ ngực nõn nà tràn đầy kiêu hãnh cong vút lên như con trăng đầu tháng” (trang 36).

Điều khiến bạn đọc có thể có một chút băn khoăn là cách kết thúc của tác phẩm. Những ai đã quen với lối kết thúc có hậu sẽ cảm thấy một chút hẫng hụt về số phận của các nhân vật chính, số phận của cả cộng đồng cư dân buôn Kroa. Hẳn đây cũng là chủ ý của tác giả nhằm phản ánh sự thật trung thực hơn và làm tăng thêm sức nặng cho thông điệp cảnh báo.

Có thể khẳng định: Nước mắt màu xanh thẫm là một tiểu thuyết thành công của Nguyễn Văn Thiện, tạo được ấn tượng đối với người đọc và sẽ là một mốc son trên con đường phát triển của văn học của vùng đất Tây Nguyên!

Đ.B.T