(Vanchuongphuongnam.vn) – Mùa đông năm ấy đến sớm. Mới cuối tháng mười âm lịch mà gió bấc đã rít lên từng đợt, khí lạnh xuyên da thịt. Gió quất nghiêng những ngọn cây bồ đề và gốc đại quanh chùa Chân Giáo. Không khí buốt giá và ảm đạm, sương đọng đầy trên cành khô, thấm cả vào đá, vào gạch, vào những pho tượng Phật im lặng như thời gian đã đông cứng lại, đóng khung vào những hình hài cụ thể.
Nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga
Chùa Chân Giáo nằm không xa kinh thành Thăng Long, gần ngay Cửa Bắc của thành, cách hoàng cung chừng nửa canh giờ đi bộ, nhưng lại như nằm ở một thế giới khác. Nếu ngoài kia kinh thành nhộn nhịp, tươi tắn và rực rỡ với đủ sắc màu, với người, ngựa qua lại như mắc cửi, với vô vàn âm thanh rộn rã thì trong chùa, mọi thứ đều lặng lẽ, im lìm, buồn bã. Dường như thời gian đã phủ một lớp bụi mờ quên lãng lên hết thảy cảnh vật nơi đây, từ những gốc bồ đề cổ thụ tán lá xòe rộng trầm tư đến mái chùa ngói thẫm nép dưới tán cây, từ hai cánh gỗ thâm nghiêm nơi cổng tam quan chỉ khép hờ mà ít khi mở đến vườn chùa đủ mọi loại cây đua nhau mọc tự do, lá khô rụng đầy lối đi như thể không khi nào có bước chân người qua lại. Chùa Chân Giáo được khởi dựng từ năm Hội Tường Đại Khánh thứ 7 với vẻ bề thế, khang trang, từ các cánh cửa gỗ đến ban thờ Phật, các pho tượng đều được sơn son, thếp vàng. Chùa cũng không mở cửa để đón người dân và phật tử muôn nơi như các ngôi chùa khác ở đất Thăng Long này, cũng không có những bậc tu hành thông thường. Là ngôi chùa hoàng gia, chùa Chân Giáo là nơi đón các vị thuộc dòng dõi hoàng thân khi quyết định rời bỏ triều đình để xuất gia. Người đời bảo, nơi đây không độ chúng sinh, chỉ giữ lại những hồn phách từng có tên trong phả hệ hoàng gia. Còn những người trong nội cung hiểu rõ: Chân Giáo là nơi giam giữ trong danh nghĩa tu hành, nơi các bậc hoàng thân thất thế có thể kết thúc cuộc đời mình trong yên tĩnh, hoặc trong quên lãng, tùy cách người đương quyền muốn sắp đặt.
Điều lạ lùng và cũng đau đớn nhất là: các chú tiểu trong chùa phần lớn không phải con nhà dân gian, mà đều là những người từng hầu hạ trong hậu cung, trong nội giám, từng biết rõ lễ nghi cung đình. Có người từng dâng nước rửa tay cho hoàng hậu, có người từng theo vua ra ngoại thành tế lễ, có người từng là viên quan giữ cổng điện Kính Thiên, có người từng là tì nữ hầu cận công chúa, công nương… Nay đều khoác áo nâu sồng, tụng kinh sớm tối, giả làm người quên, nhưng không ai thật sự quên được. Họ không gọi nhau bằng pháp danh, mà vẫn dùng những cái tên cũ trong lòng, dù miệng đọc “Diệu Pháp Liên Hoa” mà lòng vẫn nhớ “Chiêu Linh điện” hay “Thái miếu Tây cung”. Họ đi đứng lặng lẽ, ánh mắt u uẩn. Gặp khách lạ thì cúi đầu, nhưng vẫn giữ dáng người từng quen cúi trước long nhan, chứ không cúi như những sa môn vô danh. Cửa thiền không phải là nơi họ lựa chọn, nhưng là nơi duy nhất họ có thể tới khi chủ nhân của mình thất thế!
Đêm đó, sương mù dày đến mức ngọn đèn gác chuông chỉ soi được khoảng một gang tay, ánh sáng vàng vọt như sắp tắt. Gió luồn qua mái ngói rêu, qua các dãy hành lang gỗ, cuốn theo mùi trầm cháy dở. Một vó ngựa dừng lại trước cổng chùa. Người bịt mặt, khoác áo vải thô đen, cưỡi ngựa không yên cương, bước xuống. Trên tay y là một chiếc hộp gỗ trắc nhỏ, chạm hình rồng mây, nắp khóa bằng bản đồng mảnh, bóng như gương soi nửa vầng trăng. Y không gõ cửa. Một “chú tiểu” đã đứng đó từ bao giờ, im lặng như bóng cây bồ đề. Khi người khách lạ mặt xuống ngựa, chú tiểu mở rộng cánh cổng cho cả người và ngựa đi vào, rồi rất nhanh cánh cổng lại khép vào. Im lặng lại bao trùm.
Huệ Quang thiền sư, vốn là nhà vua Lý Sảm – đang ngồi thiền trong tịnh thất phía sau gác chuông. Đêm rét cắt, nhưng trong phòng không đốt lò. Ngài ngồi trên chiếc chiếu cũ, tay lần chuỗi hạt, ánh mắt khép hờ như đang chìm trong thế giới vô định, hoàn toàn “thoát xác” khỏi thực tại, nhưng thực ra tai thiền sư vẫn lắng tiếng gió rít và tiếng mõ vọng từ xa, như lắng nghe từng biến động của thế gian. Và tiếng bước chân rất nhẹ dừng trước cửa phòng cũng khiến thiền sư nhận ra. Ngài không thay đổi nét mặt, không quay lại, cũng không mở mắt, chỉ cất tiếng hỏi nhẹ như không:
– Giữa đêm khuya khoắt, người là khách lạ, tìm đến đây làm gì?
Người “khách lạ” lẻn vào phòng rất nhanh. Khi chiếc hộp được đặt xuống chiếu, trước mặt thiền sư Huệ Quang thì ngài mở mắt. Không ngạc nhiên. Không xao động. Ngài chỉ khẽ vuốt tay lên nắp hộp gỗ, như thể ngài chờ đợi giây phút này đã lâu lắm rồi. Như thể ngài đã biết trước tất cả mọi việc sẽ diễn ra vào đúng giờ khắc này…
“Xin ngài nhớ cho, cần phải trước giờ Dần. Giờ Dần, đó là giờ đẹp”
Người lạ mặt nói khẽ, nhưng giọng rít lên, lạnh hơn gió bấc. Vẻ mặt thiền sư vẫn như mặt nước ao xuân phẳng lặng, không chút động tâm. Rất nhanh, người kia lẻn ra, mất hút, đột ngột như khi xuất hiện. Một khắc giờ trôi nặng nề trong đêm tĩnh lặng. Rồi thiền sư Huệ Quang khẽ đặt tay lên chiếc hộp lần nữa. Bàn tay khô có một thoáng run lên, không hiểu vì lạnh hay vì điều gì.
Nắp hộp mở ra. Một dải lụa vàng, loại lụa chỉ dùng trong cung đình để may long bào, long phục cho nhà vua, nằm gọn trong lòng hộp, mềm như gió, và lạnh như gió. Mắt thiền sư mở to hơn. Ngài chăm chú nhìn dải lụa như thể không nhận ra nó là vật thể gì. Lại một khắc giờ trôi qua như thế. Chỉ có ánh mắt trân trối đối diện dải lụa vàng câm lặng. Chỉ có tiếng gió gào trên những tán lá phía ngoài sân chùa. Chỉ có bóng đêm đang nuốt chửng mọi thứ và ngọn bạch lạp đang run rẩy soi chiếc chiếu cạp điều, chiếc mõ gỗ sơn son, soi dải lụa trong hộp đang ánh lên một sắc vàng ma quái.
Huệ Quang thiền sư cúi đầu, tay run run cầm đặt dải lụa đặt lên gối mình, rồi thì thầm: “Dải lụa tự xử… Từng là vua, nên họ cho ta chết như một vị vua. Dải lụa này không treo giữa triều đình, mà treo giữa chốn Phật môn. Ưu ái quá… Ngày này… thế là cũng đến rồi.”
Bên ngoài, tiếng chuông chùa Chân Giáo ngân lên, rền rĩ và ai oán. Tiếng chuông trong gió bấc vẳng đến khắp kinh thành. Những người trong thành Thăng Long kể lại: đêm đó, tiếng chuông chùa vang vọng như tiếng ai gọi hồn, như tiếng ai nức nở, trách oán, rồi dần dần tắt lịm, tan vào trong sương mù mùa đông dày đặc như khói trầm chưa chịu tắt.
Ánh nến chập chờn trong tịnh thất. Dải lụa vàng vẫn lặng lẽ nằm trên chiếc chiếu cạp điều. Huệ Quang thiền sư vẫn ngồi im như thiền định. Gió bấc luồn qua khe cửa, lạnh đến thấu xương. Nhưng trong ông lại nóng bừng. Dải lụa vàng nằm như một con rắn độc kỳ dị. Con rắn độc ấy sẽ quấn lấy ông, chỉ trong ít khắc nữa thôi. Rồi tất cả sẽ qua đi. Tất cả sẽ lại trở về tĩnh lặng. Tĩnh lặng như màn đêm. Như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra. Màu vàng óng của dải lụa nhắc thiền sư Huệ Quang về những năm tháng triều chính. Có huy hoàng. Nhưng có cả đớn đau.
Cũng một mùa đông như đêm nay…
Đêm ấy, ngài vẫn còn là hoàng đế Lý Sảm. Hoàng đế ngồi trong điện Trinh Minh, trước chiếu truyền ngôi mà Trần Thủ Độ soạn sẵn dâng lên. Ngài nghĩ đến Chiêu Thánh công chúa – Lý Phật Kim, đứa con gái nhỏ mới vừa bảy tuổi của ngài với nguyên phi Trần Thị Dung. Chiêu Thánh là người được ghi danh trong chiếu truyền ngôi. Một đứa bé gái ngây thơ, vẫn còn được thị nữ giúp mặc xiêm y, giúp chải tóc, vấn khăn. Truyền ngôi cho Chiêu Thánh? Đó là điều mà ngài chưa nghĩ tới. Thế nhưng điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ nghĩ tới. Không chỉ nghĩ, Trần Thủ Độ đã làm mọi việc để ý nghĩ của hắn thành hiện thực. Không chỉ nỉ non với nguyên phi Trần Thị Dung, là em họ của Trần Thủ Độ- về việc ép nhà vua truyền ngôi cho Lý Phật Kim, mà Trần Thủ Độ còn ngang nhiên tự tuyên bố trước ba quân, trước triều đình rằng nhà vua bệnh nặng, lại là tâm bệnh, cần phải nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, không nên suy nghĩ việc triều chính, sẽ càng làm bệnh nặng thêm. Nhà vua miễn cưỡng đồng ý, không phải vì những giọt nước mắt của nguyên phi những lần đến gặp, cũng không phải vì tin tưởng ngai vua giao cho Chiêu Thánh thì ngài sẽ được an tâm tĩnh dưỡng, trị bệnh như lời Trần Thủ Độ. Lý Phật Kim ngồi ngai vua, còn vua thì lui về chữa bệnh, thử hỏi ai là người nắm quyền bính thực sự trong tay? Là ai nữa nếu không phải Trần Thủ Độ? Nhưng nếu không truyền ngôi cho con gái thì sao? Đã có lần, nhà vua lắc đầu, bảo với Trần Thủ Độ: “Ta chưa nghĩ đến việc truyền ngôi. Chiêu Thánh công chúa còn quá nhỏ tuổi. Và ta thì cũng chưa quá già…”. Nhưng Trần Thủ Độ cười nhạt: “Tâu bệ hạ, thần tuy chỉ giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ, một chức quan nhỏ thôi, nhưng thần nắm giữ được cả binh sỹ triều đình, nắm được cả tâm nguyện của ba quân. Bệ hạ ốm đau, bệnh tật, không nên cố chấp với ngai vua. Lý Phật Kim là Chiêu Thánh công chúa chứ không phải là người ngoại tộc. Cha truyền ngôi cho con, há chẳng phải là điều tốt lành phải đạo chăng? Xưa kia, khi đức vua Đinh Tiên Hoàng băng hà, thái tử Đinh Toàn lên ngôi cũng vừa tròn 6 tuổi…”. Nhà vua trân trối nhìn Trần Thủ Độ. Hắn nhắc đến Đinh Toàn là có ý đồ gì? Đinh Toàn lên ngôi khi vừa sáu tuổi, nhưng không lâu sau đó đã phải nhường ngôi cho Lê Hoàn, dưới sự sắp đặt của thái hậu Dương Vân Nga. Triều Đinh chấm dứt ngay khi đó. Tại sao Trần Thủ Độ nói đến điều này? Phải chăng hắn cũng ngầm thông báo rằng triều đình của nhà Lý cũng vậy thôi? Cũng chuẩn bị có sự chuyển giao sang một dòng tộc khác? Trước vẻ mặt nửa như thách thức, nửa làm ra vẻ vô tình của Trần Thủ Độ, nhà vua ôm mặt, gào to: “Lui ra! Ngươi lui ngay đi! Lui ngay…”. Điện tiền chỉ huy sứ cười nhạt rồi gọi to đội thị vệ: “Nhà vua lại lên cơn rồi! Đưa ngay vào trong! Truyền gọi thái y”. Lên cơn ư? Đức vua vẫn ôm mặt, bật cười khanh khách vừa chua chát lại vừa man dại. Trần Thủ Độ đã tung tin khắp hoàng cung, khắp kinh thành rằng nhà vua mắc “tâm bệnh”, tâm trí không bình thường, lúc nói lúc cười lảm nhảm, lúc lại ngồi thừ không nhúc nhích. Và thái y cũng là người của Trần Thủ Độ tiến cung. Tin truyền khắp nơi, chỗ râm ran, chỗ thì thào về việc nhà vua đã mắc chứng điên. Các phe phái trong triều càng nhân điều ấy để ráo riết tranh giành ảnh hưởng. Trong dân chúng, giặc cỏ cũng nổi lên hết nơi này lại nơi khác. Lắm lúc ngay giữa buổi thiết triều, nhà vua cũng thấy mình đang phát điên thật sự khi nghe các bản tâu toàn một màu đen tối. Cả triều đình, cả trong dân chúng, tất cả đều rối như một nắm tơ bị vò. Dân tình đói khổ. Đã mấy năm đều lũ lụt, hạn hán rồi dịch bệnh, mất mùa. Các băng đảng giặc cỏ như ong, cứ dẹp được chỗ này thì lại dấy lên chỗ khác. Quan quân trong triều hỗn loạn. Hết bè nọ lại phái kia, khi ngấm ngầm, khi công khai công kích, ganh ghét, sát hại nhau. Ai cũng cho rằng mình đúng. Ai cũng muốn nhà vua nghe theo lời tấu trình của mình. Làm gì đây? Làm thế nào đây? Câu hỏi ấy làm đầu vua lúc nào cũng đau như thể có ai lấy đục đang đục vào trong óc. Biết Trần Thủ Độ đang lạm quyền vua để lộng hành khắp chốn, thao túng cả cung đình, nhưng nhà vua bất lực, không biết làm gì hơn. Ngài vẫn phải dựa vào Trần Thủ Độ. Triều đình đang rối ren, chia năm bè bảy mối, mà những người thực sự trung quân lại ít ỏi như lá mùa thu, phần lớn bị người của phe Trần Thủ Độ khắc chế, đe dọa ngầm. Với tước vị Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Thủ Độ nắm giữ toàn bộ binh lính, toàn bộ thực quyền trong tay… Hắn như một con báo. Lúc nằm im ngoan hiền như con mèo. Lúc gầm lên dữ tợn, sẵn sàng xé xác đối phương. Có thể thấy rất rõ rằng ngay cả trong cung, người ta sợ Trần Thủ Độ hơn cả sợ vua, trọng hắn hơn trọng vua. Một ông vua đang mắc chứng bệnh điên thì làm gì có ai còn nể, còn sợ, còn trọng nữa. Ngay cả nguyên phi Trần Thị Dung, người kề cận nhà vua nhất, người biết rõ ngài không mắc bệnh gì mà chỉ do Trần Thủ Độ dồn ép và chuyện triều chính rối ren mà nhất thời căng thẳng, thì hoàng hậu cũng vẫn hùa theo Trần Thủ Độ, coi vua là một “kẻ điên” vẫn ngồi trên ngai. Có nhiều việc, Trần Thủ Độ ngang nhiên tự quyết rồi nhân danh vâng mệnh nhà vua cùng nguyên phi. Biết rõ, nhưng nguyên phi vẫn cứ bỏ qua, thậm chí còn ngầm xúi giục Trần Thủ Độ ngày một lộng hành hơn. Nguyên phi nguyên là em họ của Điện tiền chỉ huy sứ, cùng trong nội tộc họ Trần. Cũng chính bởi mối quan hệ huyết thống đó mà Trần Thủ Độ được bước chân vào hoàng cung, dần dần từng bước gây thanh thế rồi lạm quyền ngang ngược… Nhưng triều đình đang rối ren, dân chúng đang rối ren, nhà vua bất lực nhìn mọi thứ diễn ra trước mắt mà không thể làm gì hơn.
Đêm mùa đông ấy, cũng lạnh buốt thế này! Sau hai canh giờ vua Lý Sảm ngồi nhìn trân trối vào chiếu truyền ngôi, Trần Thủ Độ đột ngột xuất hiện như một bóng ma. Hắn gằn giọng: đến giờ đẹp rồi, xin hoàng thượng ký vào chiếu truyền ngôi để còn đóng triện. Nguyên phi đang đợi tin. Chiêu Thánh công chúa cũng đang đợi tin. Triều đình cũng đang đợi tin. Để ngày kia là ngày lành tháng tốt, lễ đăng quang của Chiêu Thánh công chúa lên làm hoàng đế sẽ được cử hành trọng thể! Thiên hạ cần người mới, xin bệ hạ hiểu cho! Đức vua chua chát cầm bút lông dầm vào nghiên mực son đỏ như vũng máu để trên án thư. Triều đình nào đợi tin? Lý Phật Kim, Chiêu Thánh công chúa là một đứa trẻ, đâu biết ngai vàng là gì mà đợi tin? Đức vua biết tại sao Trần Thủ Độ ép vua truyền ngôi cho Chiêu Thánh mà không phải là Thuận Thiên, dù Thuận Thiên là chị Chiêu Thánh, hơn Chiêu Thánh 7 tuổi. Ở tuổi 13, Thuận Thiên đang sắc nước hương trời, lại thông minh, sắc sảo. Dẫn dắt một đứa trẻ 6 tuổi tất nhiên là dễ hơn nhiều so với một thiếu nữ thông tuệ và bản lĩnh. Không biết Trần Thủ Độ đã thuyết phục nguyên phi Trần Thị Dung thế nào, nhưng nguyên phi cũng một mực đòi vua truyền ngôi cho Chiêu Thánh. Phải chăng nguyên phi cũng mê mẩn bởi những lời đường mật rằng nếu Chiêu Thánh lên ngôi, người được thực quyền, được buông rèm nhiếp chính chính là nguyên phi, người sinh ra Chiêu Thánh. Bao nhiêu nước mắt cũng không khiến được nhà vua lập mình làm hoàng hậu thì ngôi thái hậu cũng đủ an ủi nguyên phi. Để giấc mơ Thái hậu sớm thành hiện thực, nguyên phi liên tục thúc ép nhà vua. Ngài chua chát nghĩ: nước cờ này, ta đã thua trắng. Truyền ngôi cho con, nhưng thực chất là đang bị đoạt ngôi một cách hợp pháp mà không thể làm gì hơn. Không cần gươm đao, không cần binh lính, không cần máu đổ. Một lời nói. Một cái nhìn. Một đứa bé. Thế là đủ để thay cả triều đại. Lý Phật Kim được ngồi ngai vua mấy ngày đây? Liệu sinh mạng của Lý Phật Kim trên cái ngai khủng khiếp đó sẽ thế nào? Lần đầu tiên nhà vua cay đắng ước ao: giá như ta không sinh ra ở mệnh thiên tử. Giá như ta chưa từng một ngày làm vua…
Từ giây phút run run chấm ngòi bút lông lên chiếu truyền ngôi, vua Lý Sảm như đã chết. Chết theo tên hiệu. Chết theo sự chấm dứt triều đại của mình. Thân là Thái thượng hoàng mà ông như cái bóng trong cung… Nhưng cũng chưa yên. Cũng vẫn một đêm đông đặc quánh chỉ toàn bóng tối và khí lạnh, Trần Thủ Độ sai người đưa thái thượng hoàng sang chùa Chân Giáo: “Ngài cần nơi tĩnh dưỡng. Và chùa Chân Giáo là nơi thích hợp nhất, vừa gần hoàng cung, vừa đầy đủ kẻ hầu người hạ. Đã nhiều bậc tu hành nơi chùa Chân Giáo xuất thân từ hoàng cung…”. Thái thượng hoàng đã thành thiền sư Huệ Quang như thế. Và chùa Chân Giáo trở thành nơi ngục thất giam lỏng. Huệ Quang thiền sư biết ngoài những người thực lòng trung quân đi theo ông đến chùa Chân Giáo, cùng xuống tóc để được hầu hạ sớm hôm, thì còn biết bao kẻ đang khoác áo nâu sồng trong chùa này là tay chân trá hình của Trần Thủ Độ, đến ở chùa không phải vì mục đích tu hành, cũng chẳng phải đề kề cận, hầu hạ Thái thượng hoàng đã xuống tóc, mà để dò la tin tức, để theo dõi và chuyển tin…
Có tiếng kẹt cửa. Cửa mở ra. Một người dường như đã im lặng đứng ở ngoài cửa từ lâu. Ông mặc áo nâu sồng, râu bạc, dáng người cứng cáp nhưng ánh mắt vẫn giữ thần thái của một vị trung quan cũ, không phục tùng trước ai ngoài vua. Tên ông là Tống Trung, nguyên là Thái phó, từng kề cận nhà vua Lý Sảm từ lúc đăng cơ đến khi sụp đổ. Khi biết vua bị buộc đi tu, ông đã xin xuống tóc theo, với lời duy nhất: “Thần sống để phụng sự bệ hạ. Nếu không còn triều để phò, thì thần xin giữ gió cho đèn, giữ khói cho nhang.” Người ta cười ông dại. Ở đời, phù thịnh chứ ai phù suy. Vua không còn là vua nữa, chỉ là một vị sư, hà cớ gì Thái phó phải theo vua. Triều đình vẫn còn chỗ cho ông. Nhưng Tống Trung chỉ lặng im. Ông biết rõ những gì đang chờ mình, nếu mình còn nấn ná ở lại. Tất cả những người giữ lòng trung với vua, đều đã theo vua vào chùa Chân Giáo. Tiếc thay, những người đó không nhiều! Vào chùa, ông thành một “chú tiểu”, chuyên tâm nhang đèn và kinh kệ. Nhưng cũng như thiền sư Huệ Quang, nhang đèn và kinh kệ chỉ để quên đi những tháng ngày trước mắt, không phải để kiếm tìm chân đạo. Vào chùa, nhưng thiền sư Huệ Quang và Tống Trung không được hàn huyên nhiều. Họ đều hiểu xung quanh mình vẫn còn bao ánh mắt ngầm giám sát. Cho nên mối quan hệ vua tôi cũng phải giấu kín sau lớp áo nâu sồng.
Đêm nay, không thấy thiền sư vào nghỉ như thường lệ, Tống Trung bất an. Ông đi qua hành lang vắng, nơi gió rét quất lên như roi. Đứng đợi rất lâu ngoài cửa, Tống Trung thấy bốn bề vẫn im vắng. Không tiếng mõ. Không lời kinh. Chỉ ánh nến chập chờn len qua khe cửa nhỏ. Vậy thì thiền sư ngồi trong tịnh thất làm gì? Người làm gì mà không đi nghỉ? Khi mở cửa, thấy Huệ Quang vẫn ngồi đó thẳng lưng, bình thản và dải lụa vàng đặt trên chiếu, ông khựng lại.
Ánh nến hắt lên mặt ông, sắc mặt ông bỗng tái nhợt. Ông bước vào, giọng run: “Thiền sư… Thiền sư… Người nhận rồi sao?”
Huệ Quang không quay lại. Chỉ khẽ gật.
Tống Trung quỳ sụp xuống. Ông nắm lấy góc lụa, ngẩng đầu nhìn vị vua cũ:
“Không lẽ… đến đây rồi, họ vẫn không buông tha Người?”
Huệ Quang khẽ cười, nụ cười vừa héo hắt vừa dịu dàng:
“Buông tha? Không. Đây là ân huệ. Là cho ta được chết như một đấng quân vương. Vàng, vẫn là màu của vua chúa, phải không?”
“Không,” Tống Trung nghẹn lời, “Không thể như thế được. Hoàng thượng đã đến nước này rồi mà vẫn không được yên sao?”
Huệ Quang khẽ xua tay: “Đừng gọi ta là hoàng thượng nữa… Ta không còn là hoàng thượng từ lâu… Và chỉ lát nữa thôi, ta không còn là gì cả…”
Hai người lặng đi. Chỉ còn tiếng gió rít qua tán bồ đề và hồi chuông thứ hai trong đêm vang vọng. Tiếng chuông rền rĩ, nặng nhọc và ai oán.
Huệ Quang nhẹ nhàng đặt tay lên vai Tống Trung. Tống Trung không kìm được, nước mắt giàn giụa. Bàn tay đặt trên dải lụa vàng run lên bần bật. Trong ánh nến vàng vọt, nét mặt ông không giấu được nỗi đau. Nỗi đau đang chứng kiến sự đoạn tuyệt cuối cùng giữa một người ông hằng thờ phụng, tôn quý và thế gian mà ông không thể làm gì được.
Huệ Quang thiền sư, vị vua cũ, đưa mắt nhìn người cận thần năm xưa. Gió lạnh quất qua hiên, làm lay nhẹ gấu cà sa bạc màu. Ông nói, giọng bình thản mà lắng sâu như sương đêm: “Sinh tử là cánh cửa. Qua rồi thì thôi. Ta không còn vướng gì ở cõi này nữa. Có điều này….”
Bỗng dưng giọng thiền sư nghẹn lại giữa chừng. Tống Trung lau nước mắt, ngẩng vội lên: “Ngài có điều gì cần dạy?”. Ánh mắt thiền sư hướng ra cửa. Hiểu ý, Tống Trung bước ra. Bước chân nhẹ và êm như bước của một con mèo. Một vòng đi quanh tịnh thất, không thấy có gì bất thường, ông quay lại, khép cửa, ngồi sát hơn vào thiền sư Huệ Quang: “Xin Người chỉ dạy! Thực trong thâm tâm, thần muốn đi theo hầu Người. Thần đã theo Người đến tận chùa này, chẳng lẽ lại để Người ra đi một mình?”
Huệ Quang lại khẽ mỉm cười:
“Người nào rồi cũng phải ra đi một mình thôi. Bởi vì… chúng ta cũng một mình đơn độc đến với thế gian này… Nhưng … ta muốn gửi lại ngươi một điều cuối cùng.”
Ông nhìn thẳng vào mắt Tống Trung với ánh mắt sáng lạ thường: “Tống Trung, ngươi còn nhớ cung nhân họ Trịnh không?”
Tống Trung gật đầu khe khẽ. Cung nhân họ Trịnh được tiến cung khi vừa tròn mười ba tuổi. Nhờ sắc nước hương trời và có tài thơ phú, múa hát, nàng nhanh chóng được đức vua Lý Sảm sủng ái. Tuy nhiên, vì chỉ xuất thân quê mùa, được tiến cung là vì nhan sắc và tài năng, nàng luôn chịu sự ganh ghét, đố kỵ từ phía các phi tần và cung nhân khác, được xuất thân từ gia đình quan lại và hoàng tộc. Sự yêu vì của đức vua càng khiến cung nhân họ Trịnh trở thành cái gai trong mắt các bà phi. Hoàng thượng vì thế cũng không quá tỏ ra yêu chiều hay thiên vị. Vì ngài biết, sự yêu chiều, thiên vị của mình có thể biến thành lưỡi dao, giết chính cung nhân họ Trịnh trong tức khắc. Ngài chỉ tỏ ra là một đức quân vương say hoa đắm nguyệt trong chốc lát. Không nhiều người biết ngài thực sự rung động và nể trọng cung nhân họ Trịnh, không phải vì nhan sắc, mà vì sự thông minh, đa cảm, nhạy cảm của nàng. Nhiều đêm, thời gian thị tẩm biến thành thời gian hàn huyên tâm sự của hai con người vốn cảm thấy cô đơ cùng cực giữa chốn cung đình đầy hãi hùng, cạm bẫy. Nhưng từ khi cung nhân họ Trịnh mang long thai thì hoàng thượng tỏ ra hắt hủi, thờ ơ. Ngài biết, chỉ có cách đó mới có thể bảo vệ được mẹ con nàng an toàn trước bao nhiêu nguy hiểm. Khi cung nhân họ Trịnh hạ sinh hoàng nam, mẹ con nàng gần như không xuất hiện… Nhưng không gì qua mắt được Trần Thủ Độ. Trước khi ép vua nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, hắn đã thử lòng vua: “Lý Phật Kim dù là công chúa của nguyên phi Trần Thị Dung sinh ra, nhưng nếu nhà vua muốn lập thái tử cho con của cung nhân nào thì cứ nói. Chúng thần sẽ tìm cách…”. Hai từ “tìm cách” được hắn gằn giọng sắc lạnh. Nhà vua hiểu cách đó là cách gì. Ngài đủ khôn ngoan để giả điên, gào thét: “ta không có con cái gì hết. Lui ra, ta đau đầu như đá đập thế này? Sao mắt ta mờ đi thế này? Lui ra! Các ngươi muốn làm gì thì làm! Để ta yên! Ta chỉ cần yên!”
“Người muốn nhắc đến cung nhân họ Trịnh, là muốn nhắc đến….” – Tống Trung ngập ngừng
Huệ Quang thiền sư khe khẽ gật đầu. Đứa con trai duy nhất của ngài. Đứa con trai được sinh ra trong tình yêu vô bờ bến với cung nhân họ Trịnh hầu như “vô danh” với tất cả mọi người trong cung. Nó không được ai nhắc đến, ngay cả người cha ruột đang ngồi ở ngai vua, người chưa có một hoàng nam nối dõi nào trước nó. Không phải vì đức vua hắt hủi cung nhân họ Trịnh. Cũng không phải có uẩn khúc gì. Mà vì ngài hiểu chỉ có thế thì hoàng nhi mới được yên ổn, bảo toàn mạng sống. Coi như trong cơn “tâm bệnh”, đức vua hoàn toàn không nhớ gì đến cung nhân họ Trịnh, không hay biết gì về hoàng nhi mới được sinh ra.
“Lúc còn trong cung, ta chỉ một lần được gặp thằng bé, một lần bí mật, dẫu ta là vua. Không gặp, nhưng ta vẫn biết mẹ con nhà nàng vẫn bình an. Nhưng từ khi bị ép vào chùa… ta không còn hay biết gì nữa. Không ai dám nhắc. Không ai dám báo tin. Như thể nó… chưa từng tồn tại.”
Tống Trung nhìn sững nhà vua, run giọng:
“Người… Người muốn giao cho thần… Người muốn giao đứa bé cho thần?”
Huệ Quang thiền sư lặng đi một thoáng, rồi nắm lấy tay Tống Trung, siết chặt, giọng vừa đau đớn lại vừa khẩn thiết:
“Ta chết, lời này không ai còn biết. Ta chỉ mong ngươi… sau này hãy rời chùa. Rời trong lặng lẽ. Tìm đứa bé ấy. Nếu còn sống… hãy bảo vệ nó. Đừng dạy nó làm vua. Đừng kể nó là con ai. Chỉ cần… cho nó sống đời bình thường, sống một cuộc đời… không mang họ Lý. Hãy mang nó đi ngay. Hãy rời chùa ngay lúc này”
Tống Trung quỳ xuống, môi run nhưng giọng cứng cỏi:
“Thần xin thề sẽ mang cả tính mạng ra để thực hiện điều này!”
Thiền sư Huệ Quang ứa nước mắt: “Tống Trung, ngươi là trung thần suốt đời kề cận ta. Lẽ ra một trung thần như ngươi phải được trọng dụng, phải được hưởng vinh hoa. Nhưng ngươi… Cũng vì ta, vì ta thất thế mà ngươi lâm cảnh bi ai… Kiếp này, đời này, ta còn nợ ngươi…”
Tống Trung ngậm ngùi: “Xin hoàng thượng đừng nói vậy. Đạo quân thần là đạo trời, thần không thể trái. Chỉ tiếc mình không đủ sức để bảo vệ được người”.
Tiếng chuông canh ba vang lên từ gác chuông. Ngoài trời, mưa bụi bắt đầu rơi. Tống Trung vẫn quỳ, tay giữ lấy dải lụa vàng. Còn Huệ Quang thiền sư vẫn ngồi yên bên ánh đèn sắp tắt, như một pho tượng cũ. Thời gian như ngừng trôi.
Gió rét quất từng đợt qua sân chùa. Những cành bồ đề khẳng khiu run rẩy trong sương mù dày đặc. Bốn bề vẫn tối đen và tĩnh lặng. Chỉ có tiếng gió. Tiếng lá khô khẽ xào xạc. Huệ Quang thiền sư vẫn ngồi đó, bất động giữa lòng đêm đang tàn. Dải lụa vàng đặt ngay ngắn trên gối thiền. Ánh mắt ông nhìn vào khoảng không phía trước, sâu thẳm và an nhiên. Tống Trung đã lui, dù lòng còn nặng trĩu. Đêm đã dần cạn, và Tống Trung biết mình không được phép có mặt trong giây phút trọng đại, đau đớn và kinh hoàng tiếp theo. Ông còn một nhiệm vụ nặng nề vừa lĩnh hội.
Từ phía sân chùa có tiếng động nhẹ. Một bóng người đột ngột xuất hiện trước cửa tịnh thất, nơi Huệ Quang thiền sư đang ngồi lặng, chính là tên lính đã mang dải lụa đến đêm qua. Hắn vẫn bịt mặt, áo choàng ngắn ướt sũng vì sương.
Huệ Quang thiền sư không quay lại. Ông vẫn ngồi im, chỉ hơi nghiêng đầu khi nghe tiếng bước chân dừng lại sau lưng. Không phải tiếng bước chân Tống Trung quay lại. Cũng không phải tiếng bước chân thân thuộc của những người kề cận ông trong ngôi chùa này.
Giọng tên lính khẽ nhưng rít lên như gió bấc lùa qua kẽ lá:
“Thưa… sắp quá giờ Dần rồi.”
Chỉ một câu. Không thêm, không bớt. Không cần giải thích.
Huệ Quang thiền sư gật đầu chậm rãi, như thể đã biết từ trước. Ông cúi xuống, tay lần vào dải lụa. Sợi lụa mềm, lạnh và mỏng manh, nhưng sắc vàng của nó lại rực lên dưới ánh sáng yếu ớt của mẩu bạch lạp cuối cùng. Ông khẽ thở dài rồi đứng lên, bước chậm rãi vào phía phòng nghỉ của mình. Ở đấy có một cây cột gỗ. Ở đấy có một cái xà ngang… Ông có cảm giác mọi thứ đang vỡ vụn dưới từng bước chân mình. Phía sau, tên lính vẫn đứng, chờ đưa tin về hoàng cung.
Lát sau, tiếng chuông chùa vang lên. Không ngân dài như mọi hôm, mà ngắt quãng, dội vào không khí buốt lạnh buổi sáng sớm mùa đông của kinh thành Thăng Long. Tiếng chuông như nấc nghẹn, khàn đục rồi tắt lịm.
Từ xa, hoàng cung vẫn chìm trong giấc ngủ.
Chỉ một người trong cung thức vào giờ khắc ấy, hay nói đúng hơn là chưa từng ngủ trong suốt cả đêm qua, là Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ ngồi một mình trong thư phòng, ánh nến run rẩy soi mặt bàn ngổn ngang đầy tấu sớ. Trên tay là ngọn bút lông đã khô mực.
Điện tiền chỉ huy sứ đang đợi.
Khi tiếng chuông chùa vọng về từ phía xa, Trần Thủ Độ không ngẩng đầu. Chỉ đến khi tên lính bịt mặt trở về, quỳ xuống trước thềm, thì Trần Thủ Độ mới đặt bút xuống, nhắm mắt lại trong một thoáng.
Rồi Trần Thủ Độ mở mắt, gật đầu, thốt lên rành rọt:
“Được rồi.”
N.T.V.N