Bàn thêm sự thần diệu của ngôn ngữ thơ

9179

Lê Xuân

(Vanchuongphuongnam.vn) – Từ trước đến nay đã có nhiều bài viết, buổi nói chuyện, nhiều chuyên đề về ngôn ngữ thơ được bàn bạc, giảng dạy trong các trường phổ thông, đại học. Nghệ thuật kì diệu của thơ và nhiều vấn đề lý thú của nó thường được nhìn nhận ở hai hướng chính: Một là tìm cấu trúc ngôn ngữ thơ ở các mối quan hệ của các yếu tố ngôn ngữ, như: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Hai là tìm cấu trúc ngôn ngữ thơ ở các tín hiệu thơ (tín hiệu thẩm mĩ) được xếp đặt theo một số hệ thống nhất định của tác phẩm, tác giả. Ở bài viết nhỏ này, tôi chỉ đi sâu vào một khía cạnh “hình tượng thơ” và “tính biểu cảm” với những đặc trưng của nó, để làm rõ hơn sự thần diệu của ngôn ngữ thơ ca…

Nhà phê bình Lê Xuân 

Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường nét là ngôn ngữ của hội họa; mảng, khối là ngôn ngữ của kiến trúc, thì ngôn từ là chất liệu của tác phẩm văn học. Hình tượng văn học là hình tượng ngôn ngữ. Macxim Gorky (nhà văn Nga) đã nói: “Ngôn ngữ là yếu tốt thứ nhất của văn học”. Nhà thơ Lê Đạt gọi các nhà thơ là “phu chữ”. Trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn về Ngôn ngữ thơ. Từ đó, ta có thể lựa chọn từ ngữ để đưa vào bài thơ cho đúng lúc, đúng chỗ nhằm chuyển tải được những cảm xúc, ý nghĩ của mình đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.

Một bài thơ hay không dễ gì ta cảm nhận được ngay, có khi chỉ bằng linh cảm mà nhận ra. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên tưởng ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, hương thơm man mát bên trong hình tượng thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ: Thơ là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trông bằng mắt thường được, chỉ có thi nhân trông thì mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon… Hay như Sóng Hồng (cố Tổng Bí thư Trường Chinh) viết: Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Vì vậy để hiểu được bài thơ hay, viết được bài thơ hay nhà thơ không thể không khổ công đi tìm ý, tứ, câu, chữ và bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ.

Như chúng ta đã biết văn học được chia làm 3 thể loại: thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học). Riêng loại thơ văn xuôi, và truỵện thơ vừa có các yếu tố của thơ vừa có các yếu tố của truyện. Trong kho tàng ngôn ngữ vô cùng phong phú của toàn dân, nhà thơ chỉ lựa chọn những từ ngữ cần thiết nhất để đưa vào tác phẩm. Đó là quá trình khổ luyện, tìm tòi, tích lũy vốn sống… mới có được những chữ “thần” để có thể “lóe sáng” ở câu thơ, làm cho bài thơ “nổi gió”, “cất cánh”. Nhà thơ Nga Maiacopxki đã viết:

Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.

Khác với văn xuôi, thơ ca chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và xã hội cũng như những điều thầm kín trong tâm linh con người” (TS Hữu Đạt).

Do vậy, ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ chính xác, giàu hình tượng và biểu cảm. Các yếu tố đó hòa quện vào nhau tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa mang tính thẩm mỹ. Đó là thứ ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm góp phần tạo nên tính họa, tính nhạc trong thơ. Nó biến hóa qua nhiều sắc thái ảo thực bất ngờ, thú vị.

  1. Tính chính xác (hay còn gọi là tính tinh luyện, hàm súc):

Mỗi từ ngữ trong câu thơ phải diễn tả được đúng điều mà nhà thơ nhìn thấy, cảm thấy và những điều sẽ thấy. Lựa chọn được một từ ngữ “đắt” để diễn đạt một ý không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Trong một trường liên tưởng của từ ngữ có nhiều từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa…, người viết cần liệt kê vài từ để chọn. Tản Đà đã suy nghĩ rất nhiều khi chọn từ “khô” để đưa vào câu thơ: Non cao những ngóng cùng trông/ Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày (Thề non nước). Nếu thay từ khô bằng từ tuôn, hay từ trôi thì hiệu quả sẽ như thế nào?

Hay từ “ép” trong câu: Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan là một “nhãn tự” (mắt chữ) trong bài “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến. Nguyễn Du là bậc thầy về dùng từ ngữ chính xác trong Truyện Kiều:

Ghế trên ngồi tót sổ sàng (Hoài Thanh, bình: chỉ một từ tót thôi, Nguyễn Du đã giết chết tên Giám Sinh họ Mã).

Hay: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào.

Hoặc  Đại quân đồn đóng cõi đông/ Làm cho động địa kinh thiên đùng đùng (8 phụ âm đ), tạo cảm giác như có tiếng súng nổ.

Cũng có khi những từ ngữ trong câu thơ là những hư từ hoặc từ địa phương, từ khẩu ngữ rất bình thường nhưng được đặt đúng vào vị trí câu thơ thì nó vẫn tỏa sáng, diễn tả được đúng ý định của nhà thơ, khắc họa rõ nét nhân vật trữ tình.

Ví dụ: bài Tiếng Nghệ của Nguyễn Bùi Vợi hay bài Nhớ của Hồng Nguyên, từ địa phương chiếm một tỉ lệ cao. Đó là các từ như trong nớ, tớ, lũ, o, ni, lắc lắc, rẻ viền, ví chắc, bây chừ, cái cươi, chộ, kha, nhỡi, sèm, đọi, trôốc... Điều này các nhà thơ sẽ học tập được nhiều ở ca dao-dân ca (Vd: Gió đưa buồn ngủ lên bờ/ Mùng qua có rộng cho bậu ngủ nhờ một đêm).  Nói tính chính xác của từ ngữ trong thơ ca có khi mang tính tuyệt đối, có khi chỉ là tương đối (Xem Những con số thực và ảo trong văn chương – Lê Xuân).

2. Tính hình tượng: Ở đây ta cần phân biệt 3 khái niệm: hình tượng, hình tượng văn học và hình tượng thơ.

 – Hình tượng: Là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, được nhận thức trực tiếp bằng cảm tính (chung cho các loại hình nghệ thuật).

 – Hình tượng văn học: Là bức tranh sinh động nhất của cuộc sống được xây dựng bằng ngôn ngữ nhờ có trí tưởng tượng và óc sáng tạo và cách đánh giá của nhà nghệ sĩ.

– Hình tượng thơ: Là bức tranh sinh động và tương đối hoàn chỉnh về cuộc sống được xây dựng bằng một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ có vần điệu với trí tưởng tượng sáng tạo và cách cảm nhận của nhà thơ.

Từ đó ta thấy được ngôn ngữ mang tính hình tượng là ngôn ngữ gợi hình cụ thể. Nhà thơ không nói bằng phạm trù của tư duy lojic như trong các môn khoa học tự nhiên  mà thông qua hình ảnh cụ thể để diễn đạt những ý niệm trừu tượng.

Ví dụ:

Ước ao có một gian nhà
Có trưa đưa võng đón bà lên chơi.

(Em đi – Lê Đình Cánh)

Đó là ước mơ của một cô giáo vùng núi cao mong có nhà, có con để đón bà lên bế cháu, đưa võng trưa hè. Nói một cách khác là ước mơ được làm vợ, làm mẹ. Cũng ở bài thơ trên, tác giả đã nói tới sự xót xa của các cô khi tuổi của xuân đã mòn phai:

Ở rừng tự hát ru nhau
Lá trầu chị héo quả cau em già.

Lá trầu, quả cau là biểu tượng cho hôn nhân hạnh phúc, nhưng ở đây lá trầu héo, quả cau già. Tất cả đã quá lứa lỡ thì, tuổi xuân đã quá “đát”.

Hay ở bài thơ Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ Đồng Đức Bốn đã có liên tưởng như các cô vẫn còn sống đâu đây giữa cỏ cây, hoa lá:

Cầm cỏ thì thấy mồ hôi
Cầm đất thì thấy dấu môi vẫn hồng
Sông La tóc sóng bềnh bồng
Cầm mây, áo gái chưa chồng còn thơm.

Tố Hữu viết về bốn mùa (đông, xuân, hè, thu) ở Việt Bắc bằng ngôn ngữ giàu tính họa (có người gọi đây là bức tranh tứ bình):

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Khương Hữu Dụng viết Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Hành quân qua đèo Hải Vân) tạo cảm giác như ta vừa bước từ bóng tối ra ánh sáng, thật sung suớng. Nguyễn Duy trong bài Lời ru đồng đội viết:

Ngủ hầm, ngủ võng, ngủ bưng
Gối đầu tay ngủ cầm chừng mỗi đêm
Có người ngủ thế thành quen
Đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình.

Có nhà thơ so sánh mái tóc dài của thiếu nữ khá độc đáo Tóc em dài như một tiếng chuông ngân. (chuyển từ quan sát bằng thị giác sang thính giác). Hay Trần Đăng Khoa cảm nhận được âm thanh rất nhẹ của chiếc lá đa rơi trong bài “Đêm ngủ ở Côn Sơn”: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng… (chuyển sự cảm nhận từ thính giác sang thị giác). Tất cả những câu thơ trên đều gợi liên tưởng, tạo hình tượng khá rõ. Nếu không có trí tưởng tượng kỳ diệu thì khó mà viết được những câu thơ  tài hoa như thế. Để có được những từ ngữ “lóe sáng” đó, ngoài vốn từ vựng phong phú, nhà thơ còn phải biết kết hợp các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, điệp từ, tượng trưng, nói quá, nói giảm… trong cách diễn đạt.

Ví dụ: Bài thơ Hỏi của Xuân Diệu có tới 16 dấu hỏi tu từ:

Một năm thêm mấy tháng rồi?
Thu qua, đông lại, bồi hồi sắp xuân?
Gặp em, em gặp mấy lẩn?
Tưởng quen mà lạ, tưởng gần mà xa?
Ai làm cách trở đôi ta?
Vì anh vụng ngượng hay là vì em?
Trăng còn đợi gió chưa lên?
Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?
Hàng ngày em nói bao lời?
Với cha, với mẹ, với người chung quanh?
Với đường phố, với cây xanh?
Sao em chưa nói với anh một lời?
Tương tư ăn phải miếng mồi?
Đứng đi trên lửa, nằm ngồi trên sương?
Phải duyên phải lứa thì thương?
Để chi đêm thẳm ngày trường hỡi em?

3. Tính biểu cảm:

Là sự bộc lộ cảm xúc trực tiếp hay gián tiếp qua mỗi từ ngữ thơ. Đó là các cung bậc: ái, ố, hỉ, nộ của lòng người. Khi nghe tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã thốt lên: Bác Dương thôi, đã, thôi rồi/ Nước mây man mát ngậm ngùi lòng ta. (Khóc Dương Khuê). Các hư từ: thôi, đã, thôi rồi làm tăng dần cấp độ thương xót, nó như một tiếng thở dài, nén nỗi đau vào tim. Nhà thơ Vũ Cao đã nói hộ người chiến sĩ nỗi đau xé ruột gan khi nghe tin sét đánh – người yêu mất:

Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
(Núi Đôi)

Chế Lan Viên viết về nỗi nhớ một cách trực tiếp thật đẹp qua một loạt hình ảnh so sánh trùng điệp gợi trường liên tưởng rộng:

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
(Tiếng hát con tàu)

Ở một bài khác, ông lại bộc lộ nỗi nhớ sâu lắng hơn, trăn trở và da diết hơn:

Anh nhớ em như đất liền xa cách bể
Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em
Em thân thuộc sao thành xa lạ thế
Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm.

Xuân Quỳnh lại rất nhỏ nhẹ, đầy nữ tính khi bộc lộ cảm xúc với Trái tim đập những điều không thể nói. Trong bài Sóng, chị viết về nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp, chỉ nói với lòng mình thôi về một tình yêu vĩnh hằng chung thủy: Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ…/ Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức… để rồi cùng đọng lại nỗi nhớ là: Hướng về anh một phương.

Xuân Đam trong bài Mưa ngâu giãi bày nỗi thất tình: Muốn sang không bắc được cầ/ Trái tim người khác làm đau ngực mình. Nhà thơ Lê Anh Xuân sau bao năm xa cách, khi khi Trở về quê nội thấy bao vẻ đẹp của những cô du kích, giao liên, đã thốt lên cùng nhân vật trữ tình:

Em ơi, sao tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng?
Ta yêu giọng em cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên
Em là du kích, em là giao liên…

Nguyễn Đình Thi diễn tả nỗi đau lớn của đất nước bị tàn phá: Ôi, những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều (Đất nước). Hay Bùi Văn Bồng ngợi ca vẻ đẹp nền nã của cô gái Nam Bộ: Hết tiền thiếu gạo đi vay/ Chưa nhìn thấy áo nửa ngày đã mong…. Dòng sông thì rộng mênh mông/ Áo em lại thắt eo hông làm gì/ Khen ai khéo chiết đường ly/ Để cho tà áo thầm thì lời quê (Áo bà ba).

Tính biểu cảm của ngôn ngữ thơ trước hết phải xuất phát từ xúc cảm chân tình, dào dạt của nhà thơ. Việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh để biểu đạt chỉ là phương tiện, là chất liệu. Nếu cố tạo ra niềm vui hay nỗi buồn giả tạo thì chỉ đánh lừa được những người không có năng lực thẩm định văn chương.

Tóm lại:

Đọc bài thơ hay, câu thơ hay ta như không còn thấy câu chữ nữa. Cái hay nằm trong sự giản dị. Nếu cố làm duyên làm dáng, điểm phấn tô son, đánh bóng ngôn từ sẽ sa vào xu hướng “vị nghệ thuật” thuần túy. Mây gió, cỏ hoa xinh tươi đến đâu hết thảy cũng đều từ trong lòng người nảy ra (Ngô Thời Nhậm). Nguyễn Du nói: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Có xúc cảm tốt, tìm được tứ thơ mới lạ nhưng nếu vốn ngôn ngữ nghèo nàn thì khó có được thơ hay. Có thơ hay toàn bài, có thơ chỉ hay ở một câu, một chữ.

Song, có một điều không ai chối cải là chất liệu đầu tiên, duy nhất để làm nên bài thơ là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu đời của dân tộc (Bác Hồ). Mỗi nhà thơ sẽ có cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn ngữ toàn dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào bài thơ. Và, thơ ca khi trở lại với con người và cuộc sống sẽ góp phần làm cho tiếng Việt ngày thêm giàu có, trong sáng. Đúng như cố nhà thơ Lưu Quang Vũ đã ngợi ca trong bài thơ “Tiếng Việt”:

Tiếng tha thiết nói thường như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình.

                                                                                L.X

Tài liệu tham khảo:

– Từ điển Từ ngữ Nam Bộ – Huỳnh Công Tín  (NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2009)
– Từ điển phương ngữ Nam Bộ – Nguyễn Văn Ái chủ biên (NXB TP HCM, 1984)
– Tự vị Tiếng Việt miền Nam – Vương Hồng Sển (NXB Văn học, 19930
– Từ điển Tiếng Việt – Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ (Hà Nội – Việt Nam, 1992)

– Từ điển Văn học – Tập I & II  (NXB Khoa học và Xã hội,  1983)

– Phương Ngữ Nam Bộ – Trần Ngọc Lang  (NXB KHXH, Hà Nội, 1995)

– Văn hóa sông nước Cần Thơ ( Nhiều tác giả – NXB Văn Nghệ,  2009)

– Ca dao – dân ca  Đồng bằng sông Cửu Long (Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ, NXB Văn Nghệ , 2001)

– Tục ngữ- Ca dao- Dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan – NXB KH&XH, Hà Nội, 1978)

– Một số tập Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam của Đại học Tổng hợp, đại học Sư phạm I Hà Nội.

– Một số tập thơ của các tác giả, như: Thơ Hồ Chí Minh, Truyện Kiều (Nguyễn Du), Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Vũ Cao, Khương Hữu Dung, Trần Dần, Sóng Hồng, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Hồng Nguyên, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Bùi Vợi, Đồng Đức Bốn, Lê Đình Cánh, Bùi Văn Bồng, thơ Maiacopski…

– Một số bài viết  trên các website, như: thotre.com, lucbat.com; vannghesongcuulong.org.vn; hoinhavanvn.net; phong diep.net; lethieunhon.com; trannhuong.com…