Hồng Mão, một hồn thơ nặng tình với quê hương

1614

Phạm Văn Hoanh

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nhà thơ Hồng Mão sinh năm 1930, tại Quảng Ngãi, nguyên Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam 2 tại thành phố Hồ Chí Minh (Nay là cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam ở phía Nam), là hội viên Hội VHNT Quảng Ngãi. Ông sáng tác thơ rất sớm nhưng vì công việc quản lý nên phải tạm gác. Đến khi nghỉ hưu hồn thơ Hồng Mão mới nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm hứng về tình yêu quê hương đất nước.

Nhà thơ Hồng Mão (bên phải) và tác giả bài viết

Hàng loạt bài thơ như “Khúc ruột miền Trung”, “Bến Tam Thương”, “Về lại với sông Trà”, “Về quê”, “Về Quảng Ngãi”, “Thành phố Quảng Ngãi trong tôi”… đều ghi lại dấu ấn của một trái tim nhân hậu, yêu quê hương thắm thiết.

Có người đã từng nói: “Thơ chỉ trào ra khi trong trái tim anh mọi thứ đã thật ứ đầy”. Chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi nhà thơ Hồng Mão, một người con của Quảng Ngãi sống trên đất Bắc, đã viết nên những thi phẩm hay. Đọc những bài thơ ông viết trong những ngày đầu xa quê, ta mới thấy ông nhớ quê da diết đến chừng nào:

Xa quê nhớ đĩa mắm mòi
Khát đường Quảng Ngãi, men hơi rượu cần.
(Nhớ Khu Năm)

Bài thơ “Nhớ Khu Năm” được Hồng Mão viết vào năm 1957, những năm đầu tập kết ra Bắc, theo dạng hô bài chòi là những kỷ niệm của ông về Quảng Ngãi những năm tháng khói lửa đau thương. Nỗi nhớ ấy luôn ám ảnh tâm thức ông, theo ông suốt cuộc đời:

Quê anh đó! Cá thài bai ẩn hiện
Bát nước chè hai ngọt lịm tâm hồn
Con bống, con don, hương đồng gió quyện
Xao xuyến lòng người những chuyến đi xa.

…Đất anh hùng từng thấm máu cha ông
Lê Trung Đình – Nguyễn Nghiêm – Nguyễn Chánh
Niềm tự hào trên con đường cất cánh
Đất của thơ ca, thắng cảnh, hoa hồng.
(Quê anh – Quảng Ngãi)

Bài thơ “Quê anh – Quảng Ngãi” đã khơi lại cả một dòng lịch sử và truyền thống đấu tranh dài theo năm tháng mà Quảng Ngãi đi qua. Để có cuộc sống như ngày hôm nay, nhân dân cả nước nói chung, nhân dân Quảng Ngãi nói riêng đã phải chịu nhiều đau khổ, đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của hàng triệu con người. Bài thơ đã ca ngợi đất và người Quảng Ngãi. Nó nhắc nhở người đọc phải biết làm gì cho quê hương hôm nay và mai sau.

Đọc thơ Hồng Mão ta không thể không nôn nao một nỗi nhớ cố hương khởi lên từ hồn thơ của ông. Nỗi nhớ ấy như được chưng cất từ tâm cảm của ông, tan chảy vào thơ ông. Đọc bài thơ “Về quê”, ta thấy tâm trạng trở lại quê hương của ông quyện chặt với những kỷ niệm khôn nguôi về một thời quá khứ nghèo khổ:

Con về cha khuất núi rồi
Mẹ thân yêu đã về nơi vĩnh hằng
Chị – Anh rời bỏ trần gian
Mang theo bao nỗi nhọc nhằn khổ đau.

Buồn vương – một cánh chim trời
Về quê – nhưng phải tìm nơi ngủ nhờ
(Về quê)

Đất nước thống nhất, nhà thơ Hồng Mão về với quê hương, nhưng mẹ cha, chị, anh đã về nơi vĩnh hằng, ngôi nhà cũ cũng không còn, ông phải tìm nơi ngủ nhờ trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đọc những câu thơ này, tôi lại liên tưởng đến bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” của nhà thơ Hạ Tri Chương (659- 744), đời Đường, Trung Quốc.

Thiếu tiểu li gia lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn: khách tòng hà xứ lai?
(Hạ Tri Chương – Hồi hương ngẫu thư)

Dịch:

Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: khách ở chốn nào lại chơi?
(Hạ Tri Chương – Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê)

Hơn nửa thế kỷ, Hạ Tri Chương làm quan tại kinh đô Tràng An, đứng trên đỉnh cao danh vọng, sống trong nhung lụa vàng son, thế mà tình cố hương trong ông vẫn không thay đổi. Hồng Mão cũng vậy. Hơn nửa thế kỷ, công tác ở Hà Nội, Sài Gòn, khi về hưu, ông trở về quê. Đó là điều đáng kính phục.
Về quê, ngoài nỗi buồn thiếu vắng người thân, Hồng Mão còn cảm nhận một cách đớn đau cảnh xác xơ của quê hương sau cuộc chiến. Những thắng cảnh kỳ vĩ, thơ mộng của một thời, nay phủ ngập một màu tang:

Gần sáu mươi năm cách biệt
Cuối đời – về với quê hương

… Sơn Mỹ phủ trắng màu tang
Sông Trà cạn dòng nước bạc
Thiên Bút phê vân ngơ ngác
Thiên Ấn niêm hà – ưu tư.

Đâu còn câu hát hố, bài chòi
Khúc ca buồn vương phố thị
Tan nát “La Hà” kỳ vĩ
Rào gai khóa chặt con tim.
(Thành phố Quảng Ngãi trong tôi)

Mảnh đất quê hương bị giày xéo khiến trái tim Hồng Mão không khỏi xót đau. Phải là một người yêu quê hương, gắn bó với quê hương sâu sắc mới thấu hiểu được nỗi đau ấy.

Bao năm tháng đi qua trong hơn nửa đời người, hình ảnh quê hương thân thương cứ hiện lên lung linh trong thơ Hồng Mão. Quê hương là chiều triền đê bên sông miên man những làn gió, đêm trăng sáng thênh thang kéo vó bè với những khúc hát hố, bài chòi. Quê hương là những con đường rợp bóng lũy tre, là thuyền về trước bến… Tất cả đọng mãi trong máu thịt của Hồng Mão.

Phiêu dạt mười phương
Cuối đời – con lại về bến Tam Thương quê mẹ
Trà Giang cạn dòng
Nước thẫn thờ buồn trôi ra bể
Một thoáng se lòng
Ba chiều không gian quạnh quẽ… vấn vương
Tam Thương… Tam Thương
Đọng mãi trong tôi một giọt máu quê hương.
(Bến Tam Thương)

Tình yêu quê hương đất nước của Hồng Mão không gói gọn nơi quê hương Quảng Ngãi, mà mở rộng ra trên mọi miền của đất nước. Từ Hà Giang, mảnh đất địa đầu đến Mũi Cà Mau, mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc. Đến đâu hồn thơ Hồng Mão cũng chan chứa tình yêu thương.

Đến “đỉnh Pansipan lộng gió”, tình yêu Tổ quốc trong ông cuồn cuộn trào dâng:

Tôi đứng đây
Trên đỉnh Pansipan – lộng gió
Dưới chân tôi, nắng nhỏ giọt sương tan.
Bủa vây quanh, óng ánh biển mây ngàn.

…Từ đỉnh Pansipan
Tình yêu Tổ quốc trong tôi cuồn cuộn trào dâng.
Dáng đứng tự hào.
Dáng đứng Việt Nam.
(Từ đỉnh Pansipan)

Khi lên Hà Giang, ông đã vết:

Lên Hà Giang
Vượt qua “Cổng trời”
Tôi lặn trong mây trôi
Choàng ôm cột cờ Lũng Cú
(Lên Hà Giang)

Đến với Ban Mê, ông “tìm về cây kơ-nia vùng ngã 6” để tìm lại ký ức của ngày đầu giải phóng.

Lên Ban Mê
Tôi tìm về cây kơ-nia vùng ngã 6
Nơi đã lưu dấu
Mười một tháng ba – bảy lăm (11/3/1975)
Tiếng pháo gầm – Tiếng quân reo đạn nổ
Giăng thành bão lửa
Giải phóng thành phố đầu tiên trên vùng đất đỏ ba zan.
(Đến với Ban Mê)

Ghé thăm thành phố Đà Lạt, ông không kìm nỗi xúc động:

Đà Lạt tôi yêu
Thành phố của ngàn hoa
Sáng phơ phất hương xuân
Trưa nắng hè óng ả
Chiều nghiêng giọt mưa thu
Đêm – sương giá giăng màn.
(Đà Lạt tôi yêu)

Xuôi về Mũi Cà Mau ông cảm nhận sự đổi thay của vùng đất bãi bồi:

Mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc tôi
Sáng sáng biếc xanh, chiều chiều ửng đỏ
Đất bãi bồi ngày đêm rộng mở
Mũi Cà Mau đón gió Thái Bình Dương.
(Mũi Cà Mau)

Ra với biển, ông ghi lại niềm tự hào:

Ngọn gió nồm nam vươn lên phía trước
Thoang thoảng mùi hương của những đảo xa
Hương trái bàng vuông của đảo Trường Sa
Nắng ấm cát vàng Hoàng Sa ta đó
Ba ngàn hòn đảo – Ba ngàn chảo lửa
Sẵn sàng thiêu đốt lũ xâm lăng
Trường Sa – Hoàng Sa
Đảo anh hùng – đảo ngọc Việt Nam.
(Biển ta đó)

Và đặc biệt ra Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn vật, nơi ông gắn bó suốt thời gian làm biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh giải phóng A, ông cũng đã ghi lại cảm xúc:

Một bản tình ca Hà Nội ơi!
Nước Hồ Gươm xanh thẳm mắt người
Tả trời xanh… đẹp sao ngôi Tháp Bút
Thăng Long thành – viên ngọc sáng ngàn thu.
(Hà Nội trong tôi)

Đọc bài thơ “Hà Nội trong tôi” ta không chỉ bắt gặp cảm xúc của ông trong không gian văn hóa phố cổ Hà Nội, mà còn cảm nhận được trong thơ ông hình ảnh đất nước, con người mang chiều sâu tâm thức văn hóa, cái nôi của văn hóa Việt mà ông hằng yêu quý.
Và còn rất nhiều bài thơ nữa, tôi không thể viết ra hết, dành riêng cho bạn đọc tìm hiểu và phẩm bình.

Nhà thơ Hồng Mão năm nay đã bước vào tuổi chín mươi, vẫn “tiếp nối nghiệp văn thơ”, “dâng mật ngọt cho đời”. Hồn thơ ông vẫn cứ nặng tình với quê hương đất nước.

Quảng Ngãi, cuối xuân 2019