Lần dò theo bước chân thi ca Nguyễn Ngọc Hạnh…

1173

Du Tử Lê

(Vanchuongphuongnam.vn) – Cách đây ba năm, lần đầu Nguyễn Ngọc Hạnh đến với dutule.com (1). Tôi đã chọn hai bài lục bát và chương một trong trường ca Chạm đáy sông đầy, làm thành bài Giới thiệu chân dung tiếng thơ xa, lạ, nhưng đã mang đến cho tôi ít, nhiều bất ngờ từ đó…

Nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh

Một ngày cuối năm, tôi không nghĩ lại nhận được tập bản thảo “Phơi cơn mưa lên chiều” của Nguyễn Ngọc Hạnh. Thật tình, khi mở tập thơ, tôi không chờ đợi anh sẽ đem đến cho thơ những biến-động-chữ-nghĩa gì đáng kể, nhiều hơn thơ trước. Bởi lần đầu đọc Nguyễn, từng khiến tôi phải chú ý với những câu thơ khá mới, như: “Hình như ai vấp chân mình/ hớ hênh chân bước gập ghềnh bàn chân” Hay: “Ai gõ mạn thuyền trên sông vắng/ mà mái chèo cằn cựa đến xa xăm”. Tôi vẫn có xu hướng thiếu tin tưởng vào đường bay thi ca của những nhà thơ trung-niên, trước hiệu-ứng-thời-gian. Đó là hiện tượng thời gian bào mòn cảm xúc, khô, sần rung động; khi sung mãn tuổi trẻ như thủy triều rút đi, xa lần bờ bãi…Riêng với Nguyễn Ngọc Hạnh: Tôi lầm.

Qua tập thơ Phơi cơn mưa lên chiều, tôi cảm tưởng, dù có thêm bao nhiêu năm, tháng qua đi, dòng sông thi ca có dễ vẫn đem phù-sa-chữ-nghĩa về cho thơ của Nguyễn, như đã. Cảm tưởng vừa nói, nơi tôi, sớm dấy lên khi nhận ra trong tập thơ này. Ngay từ những cơn-mưa-trí-tuệ đầu tiên trong…phơi lên chiều của Nguyễn, đã cho thấy từ bệ phóng chiêm nghiệm nhân sinh, lao lung kiếm tìm cái mới mà, chữ, nghĩa của Nguyễn luôn là “biểu-tâm-đồ-thi-ca” chân-thiết nhất, dù vẫn trong cái khung nền thất-tình muôn đời của nhân loại:

Không rực rỡ cầu vồng bảy sắc

mây in đời em vào tôi xanh biếc


Biết là chân thấp trời cao

Vầng trăng phía trước bèo ao phía này

Ruột gan cháy xé miệng cay

Tôi xin dốc cạn trời mây…

Rượu tràn…

Đâu là bả vọng hư danh

Câu thơ mắc cạn giữa vành môi cong

Bàn chân vấp bước chân mình

Sắc không chân lại gập ghềnh bờ ao

Đâu là đất thấp trời cao

Đâu là dấu vết cồn cào đầy vơi

Nhiễu nhiên da lột mặt người

Câu thơ tát nhẹ vào tôi

Sáng bừng!

                   (Câu thơ mắc cạn)

Phơi cơn mưa lên chiều, nơi chốn và hình ảnh người Mẹ, không chỉ như hai ngọn hải đăng lớn trong biển nghiệp thi ca Nguyễn Ngọc Hạnh mà, với tôi, nó còn mang tính song-sinh của tâm-lượng thi sĩ giữa con người và đất nước nữa…Lịch sử thi ca thế giới, nhất là thi ca Việt Nam, dường như chưa tác giả nào quên nói về mẹ. Nhưng cách nói về mẹ của Nguyễn Ngọc Hạnh, là cách nói trước đây, ta chưa hề thấy:

Mẹ sinh ra trong rơm rạ

Nên hương đồng còn thơm mãi đời anh

Hoặc:

Bất chợt nhớ ngày xưa đến lạ

Mơ được một lần làm mẹ để sinh con

 

Trong bài “Qua đò, nhớ mẹ”, Nguyễn viết:

Không gọi đò, con gọi mẹ ơi

Trên bến sông này

ngày xưa mẹ tắm

Nước tận đầu nguồn

chảy ra biển lớn

mang theo phù sa

từ sữa mẹ ngọt ngào…

Không gọi đò, con gọi mẹ ơi!

Sông thì hẹp

mà vô bờ đến vậy

Con đi qua hết một thời trai trẻ

Từ chiếc đò lòng mẹ

Qua sông

Ôi con đò lòng mẹ

mênh mông!

 

Hoặc nữa, trong “Chỗ mẹ nằm”:

Gửi lại em đời mẹ chênh vênh

héo hon cả thời thiếu nữ

đi biển một mình đêm sóng dữ

cho con lành lặn giấc mơ

 

Gửi lại em anh của bây giờ

còn hơi ấm chiếu chăn ngày ấy

nơi mẹ nằm yêu thương đến vậy

nên suốt đời chỗ ướt vẫn chưa khô

 Trong trường ca Chạm đáy sông đầy, Nguyễn Ngọc Hạnh cũng cho tôi những liên tưởng, ẩn dụ mới như  “trong vườn là chuối khô thô ráp/ tiếng khóc chạm tiếng ve/ khúc hát trưa hè/ sông dọc bờ quê/ tiếng khóc lịm dần rơi giữa cơn mê, rơi trong vườn bắp tẻ/ rơi xuống trần gian một kiếp người”. Nguyễn Ngọc Hạnh vốn có những câu thơ hay về làng quê: “Xưa tôi sống trong làng/ Giờ làng sống trong tôi” viết đã lâu rồi. Thế mà cái đẹp của những thi ảnh, tên gọi, đã ẩn tàng trong máu huyết:

Cái làng ấy ra đi cùng tôi

Mà tôi nào hay biết

Chỉ mỗi điều giữa câu thơ tôi viết

Con sông quê bóng núi cứ chập chờn

Mấy câu thơ trên khiến tôi liên tưởng đến hai câu thơ nổi tiếng của Chế Lan Viên: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn. Nhưng đất hóa tâm hồn là một liên tưởng phiếm định vì tính mơ hồ của hình tượng. Ở Nguyễn Ngọc Hạnh thì đất của làng, rất cụ thể. Nó được chỉ danh rõ ràng:

– Thứ nhất: Đất đây là “cái làng”.

– Thứ hai: Cái làng ấy “nó” đi theo tác giả.

– Thứ ba: “Con sông quê, bóng núi cứ chập chờn” trong Nguyễn, dù nhà thơ đi đâu, ở bất cứ nơi nào. Tới hôm nay, tôi chưa được đọc câu thơ nào nói về sự gắn bó thịt, xương giữa nơi chốn và con người cảm động hơn thế.

Lại nữa, nơi chốn trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh còn được chỉ đích danh, như xác định tính “sở hữu” người yêu của mình:

Hội An mình vừa phố vừa quê

Em đài các lại mặn mà thôn nữ

Nét ngây thơ hiền hoà cố xứ

Mái ngói cong soi bóng sông Hoài

 

Ngã ba này là bến sông xưa

Hồn phố cổ chứa trong tà áo đẹp

Bao năm rồi người xa biền biệt

Bóng trăng quê giữa phố vẫn rằm

Dường như tình yêu mẹ và tình yêu nơi chốn với Nguyễn Ngọc Hạnh, là một cặp song sinh? Nên đôi khi tình yêu mẹ và nơi chốn chỉ là một. Là một, ngay trong những bài lục bát vốn là một trong vài thể thơ được coi là “điểm mạnh” của cõi-giới thơ Nguyễn với ngôn ngữ mới và, sự giàu có của những xúc động tự nguồn:

Chiều buồn phố rất nên thơ

Qua sông mà cứ mong chờ hoàng hôn

Chiều lên nửa phố chiều trông

Người đi từ phía bão giông chưa về!

 

Tảo tần đời mẹ chân quê

Bao năm lặn lội đi, về triền sông

Nón che không hết mùa đông

Phố che không hết nỗi buồn trần gian…

Nếu trong những bài thơ của Nguyễn tôi được đọc cách đây nhiều năm là tính mới mẻ trong so sánh, liên tưởng thì ở thi phẩm Phơi cơn mưa lên chiều, những đặc tính ấy của thơ Nguyễn, có phần phong phú, sâu, lắng hơn. Thí dụ:

Khi em cầm ngọn gió cuối thu

Chiếc lá vàng rơi vào bài thơ tình phai nhạt…

Tới đây, tôi thấy không thể tiếp tục quan điểm “chỉ gợi ý” với những dòng thơ chọn được mà, xin phép bạn đọc, cho tôi được nói rõ hơn, cảm nhận của mình về hai câu thơ trên của Nguyễn. Đứng về phương diện kỹ thuật, tôi không biết Nguyễn cố ý hay vô tình nhân cách hóa ngọn gió cuối thu, cho người con gái cầm trên tay? Để, vì là ngọn gió cuối thu, nên hình ảnh chiếc lá vàng hiện ra ở câu thơ kế tiếp rất ứng hợp với ngữ – cảnh. Và, chiếc lá vàng lại “rơi” trong một ngữ cảnh cũng không thể thích hợp hơn là: bài thơ tình phai nhạt (như sự thôi xanh của những chiếc lá cuối mùa). Tôi gọi đó là kỹ thuật liên-tưởng-gián-cách. Không cần chiếc cầu nối “liên từ” (conjunction) nào. Một thi sĩ khác, để “hiển thị” hoặc, muốn đem sự dễ hiểu đến cho người đọc, có thể sẽ viết “Khi em cầm ngọn gió cuối thu” khiến anh nghĩ tới lá vàng. Và chiếc lá vàng ấy, đã rơi vào “bài thơ tình phai nhạt”.

Tới đây, tôi nghĩ không nên viết thêm điều gì nữa, về cõi-giới thơ mênh mông kênh, mạch của Nguyễn. Vì có viết thêm bao nhiêu, cũng sẽ không đủ. Nên, tôi xin khép lại bài viết này, bằng bài Còn nợ phía bèo trôi. Một bài thơ cho thấy tấm lòng biết ơn đời, biết ơn người và, biết ơn luôn cả rác rến (phía bèo trôi) của cuộc sống, một khi tác giả phải đi xa, khuất, biệt cuộc đời này:

Biết lấy gì để tặng cơn mưa

Cứ lất phất bay như gió nhẹ

Cứ rơi rơi trong chiều lặng lẽ

Mưa cứ mưa đan chéo nỗi buồn

Biết lấy gì để tặng hoàng hôn

Ai đã nhuộm màu trời huyền ảo

Đâu dễ vẽ nên chiều quyến rũ

Dễ pha chiều vào giữa hồn tôi

Biết lấy gì để tặng đêm trôi

Lấy gì lấp đầy hao khuyết

Khi yêu ai nói lời hối tiếc

Thôi đừng bịn rịn với chiều buông

Biết lấy gì để tặng nỗi buồn

Xin trích đời tôi ngày gió bão

Trích phận em phập phù thiếu nữ

Chẳng có ngày vui đàn bà…

 

Lấy gì đây để tặng đời tôi

Khi giấc mơ sắp khép lại rồi

Biết trích vào đâu mà gửi lại

Câu thơ còn nợ phía bèo trôi...

Tôi trộm nghĩ, nếu Nguyễn Ngọc Hạnh băn khoăn về món nợ tinh thần của mình với “phía bèo trôi”… thì, những người đọc thơ của anh, rồi đây, sẽ lấy gì để trả món nợ mà, một đời Nguyễn đã tự nguyện hiến, tặng qua thi ca:

Một đời luỵ với câu thơ

Còn bao nhiêu chuyến, bao giờ đò ơi?

  Garden Grove, Apr. 2017

D.T.L

 

…………………
Chú thích:

(1) Mời đọc thêm Một mảng trời thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, dutule.com (17.112014).

(2) Có bản chép: “khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. (Nguồn Wikipedia).