Du Tử Lê
(Vanchuongphuongnam.vn) – Cách đây ba năm, lần đầu Nguyễn Ngọc Hạnh đến với dutule.com (1). Tôi đã chọn hai bài lục bát và chương một trong trường ca Chạm đáy sông đầy, làm thành bài Giới thiệu chân dung tiếng thơ xa, lạ, nhưng đã mang đến cho tôi ít, nhiều bất ngờ từ đó…
Nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh
Một ngày cuối năm, tôi không nghĩ lại nhận được tập bản thảo “Phơi cơn mưa lên chiều” của Nguyễn Ngọc Hạnh. Thật tình, khi mở tập thơ, tôi không chờ đợi anh sẽ đem đến cho thơ những biến-động-chữ-nghĩa gì đáng kể, nhiều hơn thơ trước. Bởi lần đầu đọc Nguyễn, từng khiến tôi phải chú ý với những câu thơ khá mới, như: “Hình như ai vấp chân mình/ hớ hênh chân bước gập ghềnh bàn chân” Hay: “Ai gõ mạn thuyền trên sông vắng/ mà mái chèo cằn cựa đến xa xăm”. Tôi vẫn có xu hướng thiếu tin tưởng vào đường bay thi ca của những nhà thơ trung-niên, trước hiệu-ứng-thời-gian. Đó là hiện tượng thời gian bào mòn cảm xúc, khô, sần rung động; khi sung mãn tuổi trẻ như thủy triều rút đi, xa lần bờ bãi…Riêng với Nguyễn Ngọc Hạnh: Tôi lầm.
Qua tập thơ Phơi cơn mưa lên chiều, tôi cảm tưởng, dù có thêm bao nhiêu năm, tháng qua đi, dòng sông thi ca có dễ vẫn đem phù-sa-chữ-nghĩa về cho thơ của Nguyễn, như đã. Cảm tưởng vừa nói, nơi tôi, sớm dấy lên khi nhận ra trong tập thơ này. Ngay từ những cơn-mưa-trí-tuệ đầu tiên trong…phơi lên chiều của Nguyễn, đã cho thấy từ bệ phóng chiêm nghiệm nhân sinh, lao lung kiếm tìm cái mới mà, chữ, nghĩa của Nguyễn luôn là “biểu-tâm-đồ-thi-ca” chân-thiết nhất, dù vẫn trong cái khung nền thất-tình muôn đời của nhân loại:
Không rực rỡ cầu vồng bảy sắc
mây in đời em vào tôi xanh biếc
…
Biết là chân thấp trời cao
Vầng trăng phía trước bèo ao phía này
Ruột gan cháy xé miệng cay
Tôi xin dốc cạn trời mây…
Rượu tràn…
Đâu là bả vọng hư danh
Câu thơ mắc cạn giữa vành môi cong
…
Bàn chân vấp bước chân mình
Sắc không chân lại gập ghềnh bờ ao
Đâu là đất thấp trời cao
Đâu là dấu vết cồn cào đầy vơi
Nhiễu nhiên da lột mặt người
Câu thơ tát nhẹ vào tôi
Sáng bừng!
(Câu thơ mắc cạn)
Ở Phơi cơn mưa lên chiều, nơi chốn và hình ảnh người Mẹ, không chỉ như hai ngọn hải đăng lớn trong biển nghiệp thi ca Nguyễn Ngọc Hạnh mà, với tôi, nó còn mang tính song-sinh của tâm-lượng thi sĩ giữa con người và đất nước nữa…Lịch sử thi ca thế giới, nhất là thi ca Việt Nam, dường như chưa tác giả nào quên nói về mẹ. Nhưng cách nói về mẹ của Nguyễn Ngọc Hạnh, là cách nói trước đây, ta chưa hề thấy:
Mẹ sinh ra trong rơm rạ
Nên hương đồng còn thơm mãi đời anh
Hoặc:
Bất chợt nhớ ngày xưa đến lạ
Mơ được một lần làm mẹ để sinh con
Trong bài “Qua đò, nhớ mẹ”, Nguyễn viết:
Không gọi đò, con gọi mẹ ơi
Trên bến sông này
ngày xưa mẹ tắm
Nước tận đầu nguồn
chảy ra biển lớn
mang theo phù sa
từ sữa mẹ ngọt ngào…
Không gọi đò, con gọi mẹ ơi!
Sông thì hẹp
mà vô bờ đến vậy
Con đi qua hết một thời trai trẻ
Từ chiếc đò lòng mẹ
Qua sông
Ôi con đò lòng mẹ
mênh mông!
Hoặc nữa, trong “Chỗ mẹ nằm”:
Gửi lại em đời mẹ chênh vênh
héo hon cả thời thiếu nữ
đi biển một mình đêm sóng dữ
cho con lành lặn giấc mơ
Gửi lại em anh của bây giờ
còn hơi ấm chiếu chăn ngày ấy
nơi mẹ nằm yêu thương đến vậy
nên suốt đời chỗ ướt vẫn chưa khô
Trong trường ca Chạm đáy sông đầy, Nguyễn Ngọc Hạnh cũng cho tôi những liên tưởng, ẩn dụ mới như “trong vườn là chuối khô thô ráp/ tiếng khóc chạm tiếng ve/ khúc hát trưa hè/ sông dọc bờ quê/ tiếng khóc lịm dần rơi giữa cơn mê, rơi trong vườn bắp tẻ/ rơi xuống trần gian một kiếp người”. Nguyễn Ngọc Hạnh vốn có những câu thơ hay về làng quê: “Xưa tôi sống trong làng/ Giờ làng sống trong tôi” viết đã lâu rồi. Thế mà cái đẹp của những thi ảnh, tên gọi, đã ẩn tàng trong máu huyết:
Cái làng ấy ra đi cùng tôi
Mà tôi nào hay biết
Chỉ mỗi điều giữa câu thơ tôi viết
Con sông quê bóng núi cứ chập chờn
Mấy câu thơ trên khiến tôi liên tưởng đến hai câu thơ nổi tiếng của Chế Lan Viên: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn. Nhưng đất hóa tâm hồn là một liên tưởng phiếm định vì tính mơ hồ của hình tượng. Ở Nguyễn Ngọc Hạnh thì đất của làng, rất cụ thể. Nó được chỉ danh rõ ràng:
– Thứ nhất: Đất đây là “cái làng”.
– Thứ hai: Cái làng ấy “nó” đi theo tác giả.
– Thứ ba: “Con sông quê, bóng núi cứ chập chờn” trong Nguyễn, dù nhà thơ đi đâu, ở bất cứ nơi nào. Tới hôm nay, tôi chưa được đọc câu thơ nào nói về sự gắn bó thịt, xương giữa nơi chốn và con người cảm động hơn thế.
Lại nữa, nơi chốn trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh còn được chỉ đích danh, như xác định tính “sở hữu” người yêu của mình:
Hội An mình vừa phố vừa quê
Em đài các lại mặn mà thôn nữ
Nét ngây thơ hiền hoà cố xứ
Mái ngói cong soi bóng sông Hoài
Ngã ba này là bến sông xưa
Hồn phố cổ chứa trong tà áo đẹp
Bao năm rồi người xa biền biệt
Bóng trăng quê giữa phố vẫn rằm
Dường như tình yêu mẹ và tình yêu nơi chốn với Nguyễn Ngọc Hạnh, là một cặp song sinh? Nên đôi khi tình yêu mẹ và nơi chốn chỉ là một. Là một, ngay trong những bài lục bát vốn là một trong vài thể thơ được coi là “điểm mạnh” của cõi-giới thơ Nguyễn với ngôn ngữ mới và, sự giàu có của những xúc động tự nguồn:
Chiều buồn phố rất nên thơ
Qua sông mà cứ mong chờ hoàng hôn
Chiều lên nửa phố chiều trông
Người đi từ phía bão giông chưa về!
Tảo tần đời mẹ chân quê
Bao năm lặn lội đi, về triền sông
Nón che không hết mùa đông
Phố che không hết nỗi buồn trần gian…
Nếu trong những bài thơ của Nguyễn tôi được đọc cách đây nhiều năm là tính mới mẻ trong so sánh, liên tưởng thì ở thi phẩm Phơi cơn mưa lên chiều, những đặc tính ấy của thơ Nguyễn, có phần phong phú, sâu, lắng hơn. Thí dụ:
Khi em cầm ngọn gió cuối thu
Chiếc lá vàng rơi vào bài thơ tình phai nhạt…
Tới đây, tôi thấy không thể tiếp tục quan điểm “chỉ gợi ý” với những dòng thơ chọn được mà, xin phép bạn đọc, cho tôi được nói rõ hơn, cảm nhận của mình về hai câu thơ trên của Nguyễn. Đứng về phương diện kỹ thuật, tôi không biết Nguyễn cố ý hay vô tình nhân cách hóa ngọn gió cuối thu, cho người con gái cầm trên tay? Để, vì là ngọn gió cuối thu, nên hình ảnh chiếc lá vàng hiện ra ở câu thơ kế tiếp rất ứng hợp với ngữ – cảnh. Và, chiếc lá vàng lại “rơi” trong một ngữ cảnh cũng không thể thích hợp hơn là: bài thơ tình phai nhạt (như sự thôi xanh của những chiếc lá cuối mùa). Tôi gọi đó là kỹ thuật liên-tưởng-gián-cách. Không cần chiếc cầu nối “liên từ” (conjunction) nào. Một thi sĩ khác, để “hiển thị” hoặc, muốn đem sự dễ hiểu đến cho người đọc, có thể sẽ viết “Khi em cầm ngọn gió cuối thu” khiến anh nghĩ tới lá vàng. Và chiếc lá vàng ấy, đã rơi vào “bài thơ tình phai nhạt”.
Tới đây, tôi nghĩ không nên viết thêm điều gì nữa, về cõi-giới thơ mênh mông kênh, mạch của Nguyễn. Vì có viết thêm bao nhiêu, cũng sẽ không đủ. Nên, tôi xin khép lại bài viết này, bằng bài Còn nợ phía bèo trôi. Một bài thơ cho thấy tấm lòng biết ơn đời, biết ơn người và, biết ơn luôn cả rác rến (phía bèo trôi) của cuộc sống, một khi tác giả phải đi xa, khuất, biệt cuộc đời này:
Biết lấy gì để tặng cơn mưa
Cứ lất phất bay như gió nhẹ
Cứ rơi rơi trong chiều lặng lẽ
Mưa cứ mưa đan chéo nỗi buồn
Biết lấy gì để tặng hoàng hôn
Ai đã nhuộm màu trời huyền ảo
Đâu dễ vẽ nên chiều quyến rũ
Dễ pha chiều vào giữa hồn tôi
Biết lấy gì để tặng đêm trôi
Lấy gì lấp đầy hao khuyết
Khi yêu ai nói lời hối tiếc
Thôi đừng bịn rịn với chiều buông
Biết lấy gì để tặng nỗi buồn
Xin trích đời tôi ngày gió bão
Trích phận em phập phù thiếu nữ
Chẳng có ngày vui đàn bà…
Lấy gì đây để tặng đời tôi
Khi giấc mơ sắp khép lại rồi
Biết trích vào đâu mà gửi lại
Câu thơ còn nợ phía bèo trôi...
Tôi trộm nghĩ, nếu Nguyễn Ngọc Hạnh băn khoăn về món nợ tinh thần của mình với “phía bèo trôi”… thì, những người đọc thơ của anh, rồi đây, sẽ lấy gì để trả món nợ mà, một đời Nguyễn đã tự nguyện hiến, tặng qua thi ca:
Một đời luỵ với câu thơ
Còn bao nhiêu chuyến, bao giờ đò ơi?
Garden Grove, Apr. 2017
D.T.L
…………………
Chú thích:
(1) Mời đọc thêm Một mảng trời thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, dutule.com (17.112014).
(2) Có bản chép: “khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. (Nguồn Wikipedia).