Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Huy Cận – 1

2353

22.6.2018-06:30

 Nhà thơ Huy Cận

 

Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Huy Cận

Kỳ 1 

 

PGS.TS NGUYỄN HỮU SƠN

 

NVTPHCM- Từ bốn năm trước khi in tập thơ Lửa thiêng (NXB Đời nay, Hà Nội, 1940), Huy Cận đã có thơ trên các báo Tràng An, Sông Hương (bút danh Hán Quỳ) và báo Đời nay… Ngay đương thời, thơ Huy Cận đã sớm được chào đón, ghi nhận, đánh giá cao.

 

Các bài tựa, giới thiệu chân dung, phê bình, đọc sách, tổng kết của Xuân Diệu, Hội Thống Vũ Văn Lợi, Lương An, Lương Đức Thiệp, Hoài Thanh – Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, Kiều Thanh Quế… đã đi sâu phân tích những phương diện cơ bản nhất về hồn thơ, nguồn cảm xúc vũ trụ, giọng điệu, nội dung và hình thức nghệ thuật thơ Huy Cận.

 

Trước một năm, người bạn thơ đàn anh Xuân Diệu (hơn Huy Cận 3 tuổi) đang nổi tiếng trên thi đàn với tập Thơ thơ (1938) và nhiều bài luận sắc sảo về thi ca trên báo Ngày nay (Thơ ngắn, Thơ ái tình, Đôi lời tự thuật về tập Thơ thơ, Thơ của người) và đến năm sau (1939) lại nồng nhiệt giới thiệu Huy Cận với công chúng yêu thơ. Thi nhân 23 tuổi Xuân Diệu trân trọng vinh danh chàng thơ 20 tuổi qua bài viết Thơ Huy Cận:

 

“Đã giáp một năm nay, Huy Cận đi tới giữa chúng ta với những bài thơ đặc biệt, với một tâm hồn có nhiều hương vị, một kho tàng tuy đương hỗn tạp nhưng thực là giàu. Bổn phận của chúng ta đối với văn chương Nam Việt, chẳng phải là ráng thấu hiểu để yêu mến những văn tài mới lên hay sao?

 

Thơ Huy Cận cũng thuộc về hạng thơ vừa xem qua thì dường như khó khăn, nhưng kỳ thực không có gì bí hiểm. Huy Cận cũng là “một người của đời, một người ở giữa loài người”, ông không đi với lối thơ phù phiếm, mộng mơ. Ông chỉ nói lòng người của ông, hồn người của ông, và thơ ông càng đẹp, càng xinh, khi chứa đầy hương vị của đời, của sự sống” (Ngày nay, số 166, ra ngày 17-6-1939)…

 

Xuân Diệu tinh tế cảm nhận và đặc biệt đề cao các đặc tính hương vị – màu sắc – cảm giác của hồn thơ Huy Cận:

 

“Hương vị, đó là một đặc tính của thơ Huy Cận. Thơ ông không lộng lẫy, không kiều diễm, không chú nơi thanh sắc, không nở ra như những đoá hoa rực rỡ; thơ ông không khoe tươi. Thơ ông như nụ mùa xuân, như trái mùa hè, gói gắm lại, nhưng đầy căng nhựa thơm và mật ngọt. Ông không làm mê ta bằng màu sắc và âm điệu; ông có một sức quyến rũ lạ lùng hơn, khó hiểu hơn: là mùi thơm. Thơ ông phô bày một cái gì thầm kín, rạo rực; thơ ông không phải là rượu đã rót vào chén, thơ ông là men đương lên; thơ ông không phải hoa sẵn trên cành, thơ ông là dòng nhựa đương chuyển. Ông cảm nghe sức sống, cái nao nức của cảnh vật, cái tình ý của thiên nhiên. Ông thấy đời tựa hồ như một thân thể đẹp đẽ tươi tốt, và máu đời chảy trong các mạch:

 

Nghe mạch đời đang thao thức âm thanh,

Và nhạc sống vẫn âm thầm tiến tới…

 

Ông cũng là một phần của tạo vật mạnh mẽ ấy, nên ông biết đời trong lúc đời còn chuyển, còn nao, còn sắp sửa, chứ không chỉ trong khi đời đã thành sắc, thành hình. Tả lá đẹp, ông nói một cách riêng, để ta thấy công của nhựa:

 

Rừng hân hoan muôn vạn nỗi dày bày,

Của nhựa mạnh thành tơ trong lá mới.

 

Tả buổi chiều xuân, Huy Cận không tả bằng màu sắc, mà tả bằng những cảm giác đã lắng nghe rất kỹ lưỡng trong tâm hồn ông và trong thân hình của tạo vật; buổi chiều của ông rất mạnh mẽ trẻ trung:

 

Hai hàng cây xanh

Đâm chồi hy vọng;

Ôi duyên tốt lành!

Én ngàn đưa võng,

Hương đồng lên hanh…

… Nhạc vươn lên trời;

Đời măng đang dậy

Tưng bừng muôn nơi;

Mái rừng gió hẩy

Chiều xuân đầy lời.

 

Thơ Huy Cận hay tả cái đương dậy, cái đương lên, nên có một sức mạnh đặc biệt: không phải cái mạnh ồ ạt của biển lớn, không phải cái mạnh nặng nề của núi to, không phải cái hùng dũng rầm rộ; cái mạnh của Huy Cận là thứ mạnh hoá học, sức mạnh thầm của men, của rượu, của lửa ngầm ngấm, của nắng, của mặt trời. Huy Cận yêu những sự chuyển nao thầm kín, nên ông hay nói đến rừng, ông thích “đời măng hoa cỏ dại”, thiên nhiên, tươi mạnh, xanh tốt như những người trẻ trai. Cái thiên chân kỳ lạ của ông thấy cây liên lạc với người; hai bên cùng vươn lên để kiếm gió xa, gió lạ, và “họa điệu” với nhau. Cũng như một buổi chiều kia, nằm trông lên, ông thấy trời là biển, gió là triều, lá là thuyền, và ông cho ra những câu thơ rào rào đầy gió, hai lần bát ngát, vì cái bát ngát của biển đã gồm trong cái bát ngát của trời:

 

Giữa trời hình lá con con,

Trời xa sắc biển, lá thon mình thuyền.

Gió qua là ngọn triều lên,

Hiu hiu gió đẩy thuyền trên biển trời.

 

Cái mạnh mẽ của Huy Cận là cái mạnh của sự sống, chứ không phải cái mạnh của sức lực. Ông hay nhắc đến những chàng trai:

 

Đời trẻ mạnh thơm như trang sách mới,

Hồn mở rộng và giác quan phơi phới.

 

Còn gì dương tráng cho bằng một chàng thiếu niên mười chín tuổi! Cho đến mùa xuân của ông vẫn là một xuân mạnh hơn là một xuân đẹp, có những chàng trai:

 

Luống đất thơm hương mùa mới dậy

Bên đường chân rộn bước trai tơ…

 

Và người học sinh nào đã đọc bài “tựu trường” mà không nghe trong lòng nao chuyển cái tuổi mười lăm “mắt tin cậy và tóc vừa dưỡng rẽ” mang một cái rương nho nhỏ và một linh hồn bằng ngọc, và làm lưu – học – sinh! Huy Cận rất thích những mùi thơm, nên ông nhắc và gọi:

 

Người bạn nhỏ! Cho lòng tôi theo ghé!

Không nỗi gì có thể vuốt ve hơn.

Đêm tựu trường mùi cửa sổ mới sơn,

Tủ mới đánh và lòng trai thơm ngát…

 

Với những ý sống hiền hoà như vậy, Huy Cận yêu đời một cách đầy sức khoẻ, cái gì cũng “thơm như thể da người”, cũng lành, cũng tốt; hễ cái gì theo sự sống, theo tự nhiên, là ngon ngọt như cơm chín, nước trong. Và Huy Cận yêu người, và ông muốn tình yêu là sự thẳng ngay, không “mặc cả thiệt hơn”, không trốn tránh, không suy tính. Ông hơi lạ rằng sao người ta lại có thể không yêu nhau, không tìm cách gần nhau để “trốn bơ vơ”. Ông than: “Chân theo lòng, mà người chẳng theo tôi” và cầu khẩn:

 

Đường không dài: người tránh để thêm xa;

Gặp ngay đi! Đời may rủi lắm mà!

 

Huy Cận đa tình, tâm hồn ông là một cô gái xưa rón rén ung dung, trông rất nết na dè dặt, kỳ thực hay liếc trộm và ưa viết thư tình. Ông thu hợp cái rụt rè của Á Đông và cái tươi đậm của Âu Tây, để làm nên cái “mạnh thầm” đặc biệt của Huy Cận. Ông yêu biết bao, yêu mãnh liệt, nhưng hay giấu, rồi khi “tình mất”, ông ngồi trách mình sao đã quá rụt rè. Huy Cận góp bao nhiêu đẹp tốt của Á Đông, nhất là cái lửa tro nồng ấm ở bên trong, và cái xa vắng mênh mông của thời cũ”…

 

Xuân Diệu nhấn mạnh chất thơ với “nỗi buồn mênh mang của thời gian”, “một cái hay rất mênh mông” và “bao nhiêu bâng khuâng thương nhớ” trong thơ Huy Cận:

 

“Với những câu thơ cổ kính, phảng phất một linh hồn Đường thi, Huy Cận thành thực nhớ và ngơ ngẩn yêu những cái vu vơ mờ mịt. Ông gợi cảnh cũ, không biết rõ là cảnh Tàu hay Việt Nam, chỉ thấy xưa, thấy xa, thấy vắng lặng: đó là cả nỗi buồn mênh mang của thời gian:

 

Buồn gieo theo gió veo hồ,

Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa.

Đồn xa quằn quại bóng cờ,

Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về.

                       (Chiều xưa)

 

Dừng cương, nghỉ ngựa non cao,

Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon…

Đi rồi, khuất ngựa sau non;

Nhỏ thưa tràng đạc, tiếng còn tịch liêu…

                           (Đẹp xưa)

 

Một buổi trưa không biết ở thời nào,

Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao,

Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ,

Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự…

                (Đi giữa đường thơm)

 

Xưa hay là xa, Huy Cận hay nhớ nhung, nhớ không biết là nhớ cái gì, chủ đích không có, nhưng cảm giác thật rõ ở bên lòng. Đó chỉ là nỗi “nhớ hờ”,

 

Ôi! Nắng vàng sao mà nhớ nhung!

Có ai đàn lẻ để tơ chùng,

Có ai tiễn biệt nơi xa ấy,

Xui bước chân đây cũng ngại ngùng.

 

Nếu được là nhớ tiên, nhớ Thiên Thai, thì cái nhớ còn có hình sắc. Huy Cận nhớ lạ lùng hơn, mênh mang hơn. Cả cái lành lạnh xa xa của không gian, của quá khứ, của cái không – biết – nơi – đâu và cái không – biết – thời – nào đã đến trong cái Buồn đêm mưa:

 

Đêm mưa làm nhớ không gian,

Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la

Tai nương nước giọt mái nhà,

Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn…

 

Trong mấy câu tuyệt diệu ấy, Huy Cận cho ta hưởng một cái hay rất mênh mông, một cái hay làm cho ta rợn mình vì lạnh lẽo. Ông còn gồm lại bao nhiêu ảo não cô đơn, và bao nhiêu bâng khuâng thương nhớ trong những câu thơ rung động:

 

Cô hồn vạn thuở buồn đơn chiếc,

Có lẽ đêm nay cũng ngủ nhờ.

                    (Ngủ chung)

 

Thổi lạc hương rừng cơn gió đến,

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài…

                             (Nhớ hờ)

 

Nói sao hết, nói sao rõ được cái man mác rất thiết thực và rất vẩn vơ trong thơ Huy Cận? Đó chẳng phải là đáy sâu thẳm của linh hồn ta ư? Ông thương những hồn ma chịu rét mùa đông, ông tưởng thấy họ đương nương ấp nhau trong đêm giá. Ông nhặt “dấu chân trên đường”, ý mới ngộ nghĩnh và man mác làm sao! Ông lượm những dấu bụi để xem những bước chân đã đi qua và đã biến mất”…

 

Rồi Xuân Diệu đi đến khái quát tầm thời đại – phẩm chất tinh thần thời đại của thơ Huy Cận trong sợi dây liên lạc với truyền thống và mối quan hệ Đông – Tây:

 

“Ông thân mật, ông ái ân, nhưng bao giờ cũng có cái vụng về, cái thầm kín của ông, cái ngậm ngùi vô cớ.

Huy Cận! Một tâm hồn đặc biệt quá, nồng cháy bên trong, e lệ bên ngoài, hay nói nhỏ và hay làm thinh, để cho men lòng càng rạo rực hơn nữa; một tâm hồn hãy lặng yên để nước mắt chảy, không biết khóc vì cái gì; vừa mạnh, vừa yếu, rất mới và rất xưa, rất Âu  Tây và rất Á Đông: nghĩa là cả con người, con người phức tạp của muôn thuở.

 

Thơ Huy Cận không phải là một lời hứa hẹn nữa. Thơ ông chỉ chờ một ít thời gian để trút hẳn cái vỏ còn sót lại, và lộ ra bao nhiêu nụ lộc xanh tốt, mạnh cứng, cho ta hưởng một hương sống rất lạ lùng”…

Vào tháng 6-1940, khi đang làm việc ở Nha Thương chính tỉnh Mỹ Tho, Xuân Diệu đã kịp viết lời tựa cho tập Lửa thiêng của Huy Cận và xuất bản ngay trong năm này. Xuân Diệu mở đầu bài Tựa với những dòng trang trọng:

 

“Đời xưa có một người thi sĩ lành như suối nước ngọt, hiền như cái lá xanh; gần chàng, người ta cảm nghe một nỗi hoà vui, như đứng giữa thiên nhiên, tâm hồn thơ thới. Thi sĩ thuở xưa làm những bài thơ bao la như lòng tạo vật. Xưa kia, chàng thương mến cỏ hoa, yêu dấu ân tình. Xưa kia… nhưng không! Chàng sống bây giờ đây, ở “nửa thế kỷ hai mươi”, đang đi giữa đường phố kia, mặt ngước lên, mái tóc sau đầu vồng vồng như túp lông con cò, con hạc. Ấy là Huy Cận đó;  nhưng một thi sĩ “thiên nhiên” như ở chàng thì ở thời nào chẳng được, ở thời này cũng như ở thời xưa; chàng như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian; người ta muốn tưởng linh hồn Huy Cận là đám mây kia, là nỗi hắt hiu trong cõi trời, là hơi gió nhớ thương…

 

Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo Thiên Thai, không phải điệu ái tình, không phải lời ly tao kể chuyện một cái “tôi”; mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bông lau; có phải niềm than vãn của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao? Tiếng rền rĩ dịu êm sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vết đau; tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu của núi đèo; tiếng làm thành sương, đọng lệ trên mắt ta… Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi thê thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế; những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao!”…

 

Đồng cảm và đọc kỹ, hiểu sâu Lửa thiêng, Xuân Diệu thấu suốt tâm thế của một “linh hồn trời đất”, “hồn xưa”, “cái sầu của vũ trụ”, “cái thương vô hạn… cái tủi vô cùng” – những phương diện mà ngày nay chúng ta định danh là thi pháp thời gian, không gian, giọng điệu nghệ thuật:

 

“Thơ Huy Cận không được vui. Âu cũng là một sự tự nhiên của đất trời: hàng phi lao đứng bên sông xanh kia, gió xa thổi vào, cứ tự nhiên phát ra những lời rầu rĩ. Tại phi lao buồn hay tại gió buồn. Tại gió buồn hay chỉ tại gió bay qua biển cả, thấy nhiều không gian quá mà sinh ra bâng khuâng? Làm nên điệu buồn thương duyên cớ vốn là biển cả đó thôi; mênh mông bao giờ cũng buồn; biển ra chân trời rồi biển tiếp với đại dương, biển càng sầu to vì biển quá rộng lớn.

 

Linh hồn Huy Cận là một linh hồn trời đất; nói thế không sai đâu! Xem suốt tập Lửa thiêng, cái cảm giác trội nhất của ta là một cảm giác không gian: tự nghe xa vắng quanh mình; trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát; một cái buồn vời vợi dàn ra cho đến hư vô. Huy Cận quá cảm nghe cái mênh mông, thì giọng thơ của người cũng lây cái sầu của vũ trụ. Những bài thơ đôi khi vắng vẻ quá: “Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa“, “Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người“, hay là “Sầu thu lên vút song song“; chỉ có trời đất ngơ ngẩn với nhau.

 

Thơ Huy Cận có một hồn xưa là tại đó. Phong cảnh thường bay hết sắc màu, thường chẳng có xôn xao, chỉ những nét lặng lẽ như tranh, làm thành những áng mơ tuyệt diệu. Cho đến những tình người của Huy Cận cũng như không có thời khắc: ta không thấy những chi tiết nhỏ nhặt của đời hằng ngày, những rạo rực mau chóng trong phút giây; chỉ thấy một tấm lòng thương yêu không biết có tự đời nào, và đoạn thảm, hồi vui cùng nhuốm một màu vĩnh viễn.

 

Chàng than nỗi tháng ngày vùn vụt, bảo rằng hoa xuân không đậu, đời thoảng mùi ôi, trong khi mình chưa sống hết tuổi xuân, đang còn ở giữa độ măng trẻ của đời người! Cái tiếc sớm, cái thương ngừa ấy chẳng qua là sự trá hình của lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống. Không yêu sự sống hay sao, một người thường có những cái nghiêng tai kỳ diệu: khi mùa xuân cựa mình, khi những ý tươi lên rún rẩy trong cổ chim, khi “nhạc vươn lên trời”… lòng ông cũng theo hăng hái; và thơ ông mang ngầm sinh lực như men ủ nắng, tưởng chừng câu thơ có nhựa, sắp nứt ra như một cái mầm căng.

 

Nhưng mới sau câu vui, lại có câu sầu. Ta cũng đừng vì vậy mà trách chàng Huy! Cái buồn Huy Cận là cái thương vô hạn hoá thành cái tủi vô cùng: ấy là thứ “hận sầu dài dặc lâu bền nó gieo hoạ trong lòng bọn thi sĩ”. Nỗi buồn đó vốn là nỗi buồn chung của con người; bọn thi sĩ chúng tôi nhẹ lòng nhẹ dạ, nên lĩnh mang giùm tất cả cho nhân gian! Chuyện ngày tháng phôi pha, chuyện cuộc đời quanh quẩn, chuyện linh hồn tù hãm, thân thể bùn lầy, chuyện mùa đông hay buổi chiều quá đỗi thê lương như thế gian sắp bị tiêu diệt, chắc không phải là chuyện một mình Huy Cận, ai cũng nghe, mà cứ để trong cõi mù mờ của tình cảm; chúng tôi nghe rõ và nói ra, nên chúng tôi thành những người hay thở than”…

 

Từ đây Xuân Diệu đưa ra những cách hình dung khác nhau về thơ Huy Cận, phác họa những cách đọc, cách tiếp nhận và mối liên hệ từ người đọc trở lại tác phẩm – tác giả – đời sống tinh thần xã hội:

 

“Huy Cận nói hộ cho ta đó; những giọt nước mắt thường đến quanh mí rồi ngừng, Huy Cận đã vì ta để rơi xuống má; cái linh hồn ấy bơ vơ không kể hết, kiếp người lang thang, đất trời trôi nổi, lạnh lắm, nhân gian ôi! Ta thấy người thơ đi trốn cô đơn; trốn ở đâu bây giờ? Hồn bọn thi nhân thường là một món hàng ế; bán thì người ta không biết giá, mà cho, họ nhận cũng chẳng ra tuồng. Vũ trụ mênh mang thế, một người đời làm sao cho ta nguôi được những ám ảnh bao la! Và có say đắm một đôi ngày, cũng không quên được cái bâng khuâng để lại từ kim cổ.

 

Trong đời, Huy Cận còn nghe đơn chiếc, huống chi tưởng tượng lúc sang bờ vô định bên kia! Nghĩ mà xem, cái chết rét mướt là chừng nào! Nay còn đây, nằm ngủ với gối chăn, khăng khít cùng da thịt, mà chưa đủ ấm; đến khi một mình nằm dưới đất, thì còn ai vào thăm, còn ai ôm ấp, còn đâu mặt trời và chim kêu!

 

Nói về cái chết, Baudelaire, thi sĩ sở trường môn ấy, tỉ mỉ đếm từng con dòi, vạch từng bộ phận ươn thối rữa tan; Baudelaire chỉ làm ta gớm ghê như gớm những vật dơ bẩn. Huy Cận không tả gì hết, mà đem đến những cảm giác tái tê, thấm thía hơn biết bao! Người thi sĩ Tây phương đứng bên ngoài nhìn những thi thể, người thi sĩ Đông phương nghe cái chết bằng tình bên trong của mỗi người. Hư vô càng giá căm căm, khi Huy Cận bày những cảnh sống tội nghiệp của người chết; họ tránh ngọn gió lò cửa mộ, họ ngủ nhờ với nhau, họ nằm đợi chờ; ta thấy những hồn lạc loài vơ vất trong lạnh buốt, tối căm; ta quá xót thương, và rợn mình, như gió âm ty đã thổi đến.

 

Mà Thê lương của sự chết cũng chỉ là một phần của Thê lương lớn, của Thê lương chung. Sóng gợn tràng giang, trăng phơi đầu bãi, hay dấu chân gió thốc, gánh xiếc đi qua: cũng vẫn là một nỗi vắng vẻ ấy; ta thấy xa, xa và rất xa; lòng người rộng rãi quá cho đến nỗi làm một với đất trời; và trời đất, và lòng người là một cõi mông lung, một khung mơ nó dịu dàng ru ta, nhưng vừa ru vừa làm cho ta khóc.

 

Xuống dưới đáy tâm hồn ta, tất nhiên ta thấy cái sầu cốt tủy. Sự thật ấy, Huy Cận cứ thấy luôn:

 

Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.

 

Chính chàng cũng tự nhận như vậy. Và nghe thơ Huy Cận, tự nhiên lòng ta lây cái cảm thương không cùng của thi sĩ và trước nhất, ta cảm thương người thi sĩ rất nhiều cảm thương. Ta muốn nâng linh hồn bơ vơ kia, ôm lấy an ủi: “Chúng tôi khuây khoả trong chuyện đời, ráng lấp cho đầy cái khoảng trống trong linh hồn bằng những sự thế linh tinh; chúng tôi sợ sầu, nên làm ngơ với những nhớ thương dằng dặc. Nay người nói ra, chúng tôi càng nhớ lại; chúng tôi ngước mắt nhìn lên cõi trời để thấy hình ảnh hồn chúng tôi. Chúng tôi cũng bơ vơ; mỗi hồn người là một cõi bơ vơ, trong đất trời là một khung bơ vơ; chúng ta đồng một bơ vơ với nhau, vậy thì người cũng bớt bơ vơ một chút”…

 

Tập thơ in ra vừa kịp để Mộc Khuê Kiều Thanh Quế ghi danh vào cuộc tổng kiểm kê Ba mươi năm văn học (NXB Tân Việt, H., 1941) dẫu chỉ với một dòng chơi chữ bông lơn: “- Huy Cận trịnh trọng đốt Lửa thiêng (1940)”…

 

Tiếp theo, trong bài giới thiệu Lửa thiêng trên báo Tràng An (số 12, tháng 3-1941), nhà thơ đồng thời là nhà phê bình Lương An trước hết đặt tiếng thơ trữ tình Huy Cận trong tương quan với thời cuộc và cả một thế hệ thi nhân:

 

“Đọc những bài thơ này, người ta ngỡ đâu như đọc bài Premières Solitudes của Sully Prudhomme, tả bọn học trò còn nhỏ phải đưa vào trường, đêm khuya nhớ nhà ôm nhau mà sụt sùi.

 

Tuy nhiên cái đời học sinh trẻ thơ ấy có bao giờ lâu dài được đâu, người ta chỉ có thể vô tư vào độ hai mươi trở xuống; từ tuổi ấy trở lên người ta đã bắt đầu bước vào cuộc đời và nhấm vị chua cay của nhân tình thế sự. Tâm trí, hoài bão, ý niệm người ta cũng đổi khác đi. Lúc này là lúc phải lo âu, phải suy nghĩ để tìm lấy một xu hướng.

 

Thi nhân của ta cũng thế. Tuy sự thay đổi trong đời chàng chỉ là một sự thay đổi không khí cỏn con nhưng cái tuổi không cho phép chàng ngây thơ như trước nữa. Bởi lẽ ấy người ta bắt đầu thấy Huy Cận buồn buồn. Mối buồn của thi nhân bao giờ cũng là một mối buồn vô hạn. Huy Cận cũng trở nên thi sĩ của tình cảm thống thiết, cũng tham lam đòi hỏi tình yêu, nhưng chàng thực chưa nặng tình cùng yêu mến như “Bạn chàng Xuân Diệu”.

 

Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn chàng là một khu vườn cũng theo mùa mà nở hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây giờ là đối tượng của những hiện tượng của thời tiết. Một điều đáng chú ý là cái nhớ của chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ.

 

Nuôi một mối tình muôn dặm, yêu vẩn vơ một nàng cỡi ngựa trong rạp xiếc, nằm trông lên thả mộng ra khắp phương trời, nếu không phải chàng Huy Cận đang độ vô tư lự thì là ai nữa! Những hành động thơ ngây, những mối tình trẻ trung ấy phải là của một chàng thi nhân sống ngoài nhân tình thế sự; chàng thi nhân ấy nếu không phải Huy Cận thì là ai nữa! Nhưng ngày thơ ấu ấy bây giờ không còn nữa. Bây giờ là độ thanh xuân chạm trán với cuộc đời, bây giờ là lo âu, là nghĩ ngợi. Bắt gặp cảnh biệt ly mà sầu, đi giữa đường thơm mà lo tình mất, thấy dấu chân trên đường mà thẫn thờ, nghe mưa rơi lác đác mà buồn buồn, chao ôi, sao lòng chàng thi nhân của ta thiết tha và dễ cảm xúc đến thế”…

 

Từ đây Lương An đi sâu cắt nghĩa, lý giải chất thơ “sầu vạn cổ” và theo đó là vẻ đẹp hình thức, câu chữ làm nên chất lượng thơ Huy Cận:

 

“Sở dĩ Huy Cận buồn thương như vậy là vì chàng lo sợ một ngày rất gần hạnh phúc sẽ không cười duyên với chàng nữa, mà chàng thì ham sống và tin vào cuộc đời quá. Chàng sầu vì tâm can chàng bắt chàng phải thế. Đó là một trong những lý do đã đưa chàng lên lầu thơ bất tuyệt. Mối sầu của chàng có thể cho là một mối sầu vạn cổ.

 

Từ đây Huy Cận là một con người nặng tình sông núi, cảm gió sầu trăng. Bây giờ chàng đã thấy những sự mâu thuẫn của đời nên thơ chàng cũng rẽ vào lối “đoạn tràng”. Chàng chạy theo dõi một mối tình mất mà thương tiếc; chàng ngậm ngùi khi nắng chiều xế vàng trên bãi; chàng nhớ nhà vì một cảnh tràng giang; chàng ngơ ngẩn khi bắt gặp một cảnh thu trên núi rừng; chàng thẫn thờ sau một cái xe tang; chàng đau khổ khi nghĩ đến một ngày sắp tới người sẽ mất hết linh hoạt để “bước vào mồ nhỏ tí”. Chàng đã bị những sự mắt thấy tai nghe hàng ngày cảm hoá và làm cho xúc cảm nhiều quá. Ý nghĩ của chàng chỉ quanh quẩn trong cõi sầu thương; chàng là thế đó, trọn một đời thương nhớ và hồn bị thiên hạ bỏ đìu hiu; chàng than thở với Thượng đế, đã làm ra thân thể con người để đau khổ và để làm nên tội lỗi.

Huy Cận sinh ra với một tấm linh hồn đơn chiếc, đa sầu đa cảm. Chàng than van không có bạn bè tri kỷ, chàng đi bơ vơ trên đường đời âm thầm và đau đớn. Tình yêu không lưu luyến chàng, mọi việc gợi ra trước mắt chàng sự ê chề, sự chán ghét. Tất cả những nguồn sống ở đời đối với chàng đơn sơ quá nên không thể làm cho cái tinh thần sinh hoạt của chàng (vie intellectuelle) đầy đủ được.

 

Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy đủ như một bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính thi nhân cũng nhận rằng cái cảnh tràng giang ấy đã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy nghe thi nhân nói cảm giác của mình:

 

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

 

Ngày xưa, Thôi Hiệu đứng trước cảnh lầu Hoàng Hạc mà ngậm ngùi và thấy khói sóng trên sông mà nhớ nhà:

 

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

 

Nhưng ở đây, Huy Cận thấy trời nước mông mênh quá, tráng lệ quá mà nhớ nhà. Vì lẽ ấy mà cảnh không tang thương, lòng không hoài cổ, sông không đùn sóng mà cũng ngậm ngùi mối tình lữ thứ:

 

Tả một buổi chiều xuân, Huy Cận viết:

 

Hai hàng cây xanh

Đâm chồi hy vọng…

Nhạc vươn lên trời

Đời măng đang dậy.

 

Thật là nói đủ tất cả hy vọng, trẻ trung, êm dịu của một mùa xuân.

 

Tả một cảnh thu ở núi rừng:

 

Non xanh ngây cả buồn chiều,

Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia.

 

Xem chữ “ngây” nó nhẹ nhàng, thấm thía biết bao. Không, mùa thu đến non xanh có buồn gì đâu; non xanh chỉ thấy trời buồn mà buồn lây mà thẫn thờ lây đấy thôi.

 

Đại để chỉ đơn cử ngần ấy tỉ dụ, kể cho hết thì quá dài. Những chữ vừa trích ra đây trong tập Lửa thiêng không phải ít. Đọc nó lên là thu được một cảm giác, thấy được một cử động, nghe được một dư thanh. Thực là những chữ “thần tình”.

 

Thơ Huy Cận nhờ thế mà trong như thuỷ tinh và đẹp như ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi nổi ngọn trào lòng rào rạt; đọc Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí phán đoán sáng suốt, mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của Huy Cận.

 

Văn Huy Cận là một thứ văn chải chuốt; tình Huy Cận là một tấm tình đơn giản mà thm thiết.

 

Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người lạnh nhạt hững hờ; đừng thấy văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên. Huy Cận viết văn rất điêu luyện; song không bao giờ để rơi những ý niệm của mình. Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong người nhẹ nhàng nhu khoái. Đã lâu lắm từ ngày Thơ thơ ra đời đến nay mới lại có một tập thơ đã khiến người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả.

 

Tập thơ Lửa thiêng là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong công cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả một sự gắng công, và có lẽ là một công trình văn nghệ rất đáng chú ý nữa.

 

Huy Cận hiện đang đi tới giữa chúng ta với một tài hoa đương thời nảy nở. Tương lai của chàng chắc hẳn càng tốt đẹp và sáng lạn hơn nữa.

 

Lửa thiêng ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu”…

 

Một năm sau, Huy Cận cho in tập văn xuôi Kinh cầu tự (Lê Văn Dự xuất bản, H., 1942) với cảm hứng được đẩy cao từ Lửa thiêng, hướng đến cực tả con người cá nhân siêu thoát, tan hòa trong thế giới tự nhiên, vũ trụ, tâm linh. Trong bài đọc sách Phê bình Kinh cầu tự của Huy Cận trên Tạp chí Tri tân (số 55, tháng 7-1942), Hội Thống Vũ Văn Lợi đặc biệt chú trọng đặt tác phẩm văn xuôi này trong tương quan với thi tập Lửa thiêng:

 

“Năm xưa nhà văn hào Pháp Paul Bourget xuất bản cuốn tiểu thuyết Le Sens de la mort (Nghĩa cái chết), mượn một thiên tình sử cao thượng, bi đát, để diễn đạt tư tưởng của tiên sinh về lẽ sinh tử ở đời. Edouard Rod cũng đã băn khoăn đi tìm nghĩa cái sống, trong cuốn Le Sens de la vie. Sinh, tử, tồn, vong, quả là một cái đề thiên cổ đã làm cho bao thi nhân, mặc khách, cổ kim, Đông, Tây, tốn công suy nghĩ, mà vẫn chưa khám phá được lẽ huyền bí của Tạo vật.

 

May thay, ông Huy Cận, đầy một lòng tin tưởng và tín nhiệm vào cuộc đời, đã cho ta biết “Nghĩa sự sống” một cách gọn gàng, minh bạch, trong tập Kinh cầu tự, “Ôm sự sống, hôn cuộc đời”, tác giả sau khi ca tụng không ngớt “sự sống bao la và vô lượng”, “cái chằng chịt muôn hình của sự sống”, “cái vui của Vũ Trụ” (thì “mỗi người sinh ra” chả là “một cục vui của Tạo hóa” là gì?) đã cho ta biết một cách chắc chắn rằng: “Nghĩa sự sống? Chỉ là lòng yêu sự sống mà thôi”.

 

(Còn tiếp 1 kỳ)

 

 

TIN LIÊN QUAN:

 

>> Nguyễn Tất Nhiên – Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá – Ngô Nguyên Nghiễm

>> “Thay áo” của Trịnh Công Lộc – Đặng Huy Giang

>> Sắc màu truyện ngắn Nguyễn Văn Thọ – Bùi Việt Thắng

>> Ngược lối với thơ Phan Hoàng – Mai Thị Liên Giang

>> Văn học và đời sống – Võ Chí Nhất

>> Cái chết của nhà thơ – Võ Tấn Cường

>> Nhân đọc trường ca của Phạm Công Trứ – Ngô Mạnh Tuấn

>> Nguyễn Đức Phú Thọ những vần thơ lay động – Hoàng Thị Thu Thuỷ

>> Một nét bí ẩn thơ Bích Khê – Lê Thành Nghị

>> Độc giả của Xuân Diệu là ai? – Mạc Danh

 

 

>> XEM TIẾP NGHIÊN CỨU – LÝ LUẬN PHÊ BÌNH CỦA TÁC GIẢ KHÁC…