Từ Klamath Falls đến Mỹ Sơn – Bút ký Nguyễn Nhã Tiên

488

(Vanchuongphuongnam.vn) – Nghệ sĩ điêu khắc James Gion sinh năm 1946 tại làng cổ Klamath Falls – Oregon (Hoa Kỳ), anh tốt nghiệp ngành mĩ thuật (tạo hình) Đại học Oregon State. James Gion là một nhà điêu khắc – một nghệ sĩ điêu khắc lang thang đúng nghĩa đen của từ này. Từ hơn 15 năm nay, năm nào James cũng có mặt ở Việt Nam đôi ba tháng. Khi thì Bình Dương – Sài Gòn, lúc thì Đà Nẵng – Hội An, có khi anh lên tận Tây nguyên ăn ở với các làng bản Bahnar, Ê đê, Jarai… để từ đấy sáng tạo những tác phẩm mới. Mà nói theo kiểu James, mỗi khi nghe ai hỏi đến những chuyến đường xa như thế, anh thường một câu trả lời quen thuộc: “Yes that seems to be my fate” (tất nhiên, dường như nó đã thành định mệnh). Bây giờ thì anh đã về đến cái đích định mệnh của mình – thế giới của những người “hồn muôn năm cũ”, anh qua đời vào ngày 04/7/2018. Bài viết này viết nhân kỷ niệm ngày anh mất. An nghỉ nhé James! người bạn nghệ sĩ điêu khắc lang thang của tôi!

Nghệ sĩ điêu khắc James Gion và tác giả bài viết

Từ làng quê cổ xưa Klamath Falls tận nước Mỹ cho đến khi bước chân James Gion bước trong đền tháp cổ Mỹ Sơn tại Quảng Nam, cái không hiểu, cái bí mật mới là lý do cho mọi hành trình trôi về phía vô tận.

Gọi tên hai địa chỉ, một quê xứ của người bạn của tôi từ bên kia bờ đại dương, và một Mỹ Sơn – Di sản Văn hóa thế giới nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, là để tôi hình dung ra suốt con đường dài thăm thẳm in đầy dấu chân lang thang của một nghệ sĩ điêu khắc. Xưa – nay, chuyện những nhạc sĩ, thi sĩ từng nức tiếng giang hồ, tay đàn tay nải lang thang khắp mọi miền làm thơ, ca hát, có nghe thấy cũng chẳng lấy gì làm lạ. Nhưng, một nghệ sĩ điêu khắc với hàng “núi” dụng cụ đồ đạc lỉnh kỉnh, cùng với nguyên vật liệu mang theo để gọi là vừa lang thang vừa tác nghiệp trên đường xa, thì quả là chuyện lạ, chuyện ít thấy bao giờ. Huống nữa là một nhà điêu khắc người nước ngoài, lại càng hiếm hoi hơn.

Ấy vậy mà James Gion, một nhà điêu khắc ở tận cái làng quê cổ xưa Klamath Falls thuộc tiểu bang Oregon nước Mỹ, lại lựa chọn Việt Nam để có dịp phơi mở tình yêu của mình qua từng tác phẩm nghệ thuật trên mọi nẻo đường James đi qua. Mà nào phải một đôi lần ngẫu hứng lãng du gì đâu. Suốt từ mười lăm năm nay, hầu như năm nào James Gion cũng có mặt ở Việt Nam, chuyến đi nào cũng kéo dài vài ba tháng, có khi còn lâu hơn nữa. Lúc thì anh ở Sài Gòn – Bình Dương, khi thì James ở Đà Nẵng – Hội An, cho đến xuyên suốt những vùng đất Tây Nguyên như Pleiku, Kon Tum nữa. Có lần anh bảo tôi rằng: Không phải anh đến mà là anh về, Việt Nam tự bao giờ đã là quê hương tinh thần của James. Câu nói này, nếu là nghe từ một người nước ngoài nào đó nói ra, tôi còn ngờ ngợ hiểu đó là cách nói lấy lòng, nói xã giao, nhưng với James thì tôi tin câu nói ấy xuất phát từ lòng chân thành của một tâm hồn đa cảm.

Sau nhiều lần lưu lại ở Đà Nẵng, James Gion đã trở thành là người bạn thân của gia đình tôi. Bạn thân không chỉ là chuyện làm tượng hay tranh vẽ, mà là mọi mặt đời sống. Ví như, nhà tôi vốn là một gia đình Phật tử nên việc chay tịnh trong ẩm thực là chuyện bình thường, có ai ngờ James cũng khá thân thiết với từng bữa chay tịnh như thế. Đôi khi tôi mơ hồ nghĩ rằng: hay là tự đời nào, kiếp nào, anh đã là con cái của đất đai này, xứ sở này. Nhưng, nói theo cách nói của thi sĩ Lưu Trọng Lư trong hồi ký “Nửa đêm sực tỉnh”, rằng con người ta, có những chuyến tàu mà cuộc hội ngộ bất ngờ thành ra cả cuộc đời. James hội ngộ với Đà Nẵng hay với Việt Nam cũng thế, “chuyến tàu” ấy là chuyến tàu mang tên thời chiến tranh, James Gion có hơn một năm làm lính hải quân ở Tiên Sa –  Đà Nẵng vào thời đó, có ai ngờ từ đấy trở thành cái duyên cho cuộc hội ngộ bây giờ. Về Đà Nẵng, James đi lại như đi lại giữa quê nhà. Có lần tôi chỉ đường cho James tự đi lấy đất sét tại một nhà máy gạch tuynel ở Hòa Khương cách Đà Nẵng hơn 20 cây số. Vậy là anh nhảy xe buýt rồi cuốc bộ đến tận nơi. Và rồi không những đến đó xin được đất sét, James còn kết bạn với giám đốc nhà máy để từ đấy có thêm một địa chỉ bạn bè cho anh tới anh về. Dường như cả cuộc đời hoạt động nghệ thuật của James Gion thường gắn liền với những cuộc lãng du lông bông như thế, mà mỗi quãng lặng chính là dịp để tác phẩm James có cơ hội lên tiếng nói.

Trong chuyến trở về Việt Nam lần này, sau gần cả tháng bận rộn công việc ở Bình Dương, James mới ra Đà Nẵng. Dù là một nhà điêu khắc, nhưng lâu nay chưa bao giờ tôi nghe James nói về nghệ thuật điêu khắc Chăm, nhất là Mỹ Sơn – một cái khuyên son thường thấy trong sổ tay của khách du lịch. Hóa ra trong ký ức của anh còn có cả một bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng, điều này tôi biết khi đọc được những dòng cảm nghĩ của anh trong sổ tay hành trình: “Bảo tàng Chăm vào thời đó (tức thời chiến tranh) trong tôi, tất cả mọi thứ đã bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, nhưng tôi vẫn cảm thấy một sợi dây kết nối với các nghệ nhân, những nhà điêu khắc đã tạc lên những nhân vật tuyệt mỹ vẫn trường tồn cả nghìn năm trước. Tôi không phải là một học giả nhưng vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của những linh hồn trong từng tác phẩm. Có lẽ tôi là một nghệ sĩ đã bị ảnh hưởng bởi những tác phẩm điêu khắc truyền thần này”. Thú thật, không biết James Gion có bị ảnh hưởng ít nhiều gì nghệ thuật điêu khắc Chăm hay không, nhưng có thực chứng bàn tay tài hoa của anh thể hiện qua từng tác phẩm, mới thấu cảm được tâm hồn nghệ sĩ ấy hiện hữu phơi bày cái đẹp đến nhường nào.

Lần trở lại này, James quyết thưởng ngoạn Mỹ Sơn một chuyến. Cùng đi với James còn có vợ chồng người em trai của anh David Gion từ Hawaii mới sang Việt Nam, và Tịnh Giang – con gái của tôi làm hướng dẫn viên.

Thực ra, Tịnh Giang đi là đi cho có bạn chứ hướng dẫn nỗi gì! Với năng lực nghệ sĩ của James, rồi ra anh sẽ thấu cảm mọi thanh âm đền tháp Mỹ Sơn. Gạch đá cổ tháp cho đến những tượng thần và cây cỏ rêu xanh Mỹ Sơn sẽ nói với anh về những biến dịch in rõ dấu thời gian đi qua. Vả lại ở Việt Nam, James đi đâu mà chẳng lè kè cuốn tự điển dày cộm bên mình. Tôi nói với James: giá như anh thuộc thơ “Điêu tàn” của thi sĩ Chế Lan Viên viết về “nước non Hời”, hoặc là biết một ít về Kazimier Kwiatkowsky – một kiến trúc sư Ba Lan, người đã trùng tu di tích Mỹ Sơn, có khi lên đấy, cùng với những pho tượng Chăm, không chừng James sẽ gặp những linh hồn họ ca múa ngày ngày với Mỹ Sơn như nuôi dưỡng một sự sống vĩnh hằng.

Chẳng rõ sau một ngày lang thang cổ ngoạn Mỹ Sơn, những vị thần Visnu, Siva, Dvamapala… mê hoặc James một thứ thần khải đẹp đến nhường nào, mà khi về Đà Nẵng anh say sưa trò chuyện có khi giọng lạc thần, nói như một kẻ lên đồng:

“Thăm thánh địa Mỹ Sơn tôi có thể cảm nhận được linh hồn trong từng pho tượng điêu khắc Chăm Pa vẫn trường tồn. Mặc dù chúng đã hao mòn theo thời gian và để lại những vết sẹo do chiến tranh gây ra, điều này càng làm tăng nhận thức mạnh mẽ về linh hồn vĩnh cửu, và sự bền bỉ với thời gian của những hiện thân xưa qua những pho tượng, thành cổ, cho dù vật thể của chúng đã bị xói mòn và hủy diệt. Tham quan Mỹ Sơn nhắc nhở tôi về lý do tại sao tôi muốn làm điêu khắc…”

Vâng, tôi hiều đấy là cao trào của cung bậc cảm xúc, mà James Gion – mẫu nghệ sĩ kiểu như anh chừng như chất chứa đầy trong lồng ngực, hễ có dịp là phấp phỏng vỡ tràn ra – vỡ ra trên đôi mắt đắm say thể hiện niềm ưu tư, vỡ ra trên đôi bàn tay lúc chạm trổ hay lúc nắn nót từng vụn đất sét đắp thành một nguyên mẫu nào đó. Có lẽ đấy mới là thứ ngôn ngữ mà James thể hiện rõ nhất.

Tôi thường không gọi James Gion là một điêu khắc gia, hay đơn giản thông thường như người ta nói là một nhà điêu khắc. James chả có nhà, có trại gì hết, anh là một nghệ sĩ điêu khắc lang thang. Với anh nghệ thuật là con đường, anh gieo trên con đường đó những giấc mơ về cái đẹp, cứ thế qua mỗi cuộc lãng du, dường như James đều trở về tay không, nhẹ nhàng và thanh thản cùng với nụ cười mãn nguyện tươi rói trên môi.

Trả lời tôi, hay là James nói với chính mình – một câu nói mà tôi đã nghe không biết bao nhiêu lần: “Yes that seems to be my fate”. Thì… định mệnh chứ còn gì nữa, từ buổi trai trẻ thanh xuân bước vào trường Đại học Oregon State đến khi cầm tấm bằng cử nhân mỹ thuật chuyên ngành tạo hình, cho đến bây giờ hơn nửa thế kỷ đã qua, con đường anh mở ra gieo cấy những giấc mơ vẫn không hồi kết thúc.

Mà quê xứ của James, cái làng quê cổ Klamath falls, cũng là một đinh mệnh. Từ thủa xa xưa, miền đất này là quê hương của người Modoc – một bộ lạc của thổ dân châu Mỹ. Cho đến ngày  xứ sở này được thành lập thị trấn lấy tên là Linkville, nằm bên dòng sông Link và cái thác nước Tiwishkeni – cũng tức là trong lòng quê xứ ấy luôn ẩn chứa một tự nghĩa như một niềm bí mật, mà người bản xứ diễn dịch tên cái thác nước ấy như một câu hỏi gởi cho vô tận: “Nước chảy trôi về đâu?”.  Sẽ khó mà lý giải những gì thuộc về số phận. Nó là một ngẫu nhiên, một siêu lý? Hay là lý duyên khởi như trong triết lý nhà Phật. Ngay cả James Gion cũng bảo chẳng thể nào anh hiểu hết.

Vâng, từ Klamath falls cho đến khi bước chân James Gion lang thang trong đền tháp cổ Mỹ Sơn, cái không thể nào hiểu hết, cái bí mật thăm thẳm mới là lý do cho mọi hành trình về phía vô biên.

N.N.T