Đỗ Thượng Thế phía đàn chim gọi bầy

543

12.12.2017-10:30

NVTPHCM- Vẫn hồn cốt quê hương đất Quảng, vẫn tinh thần văn hoá xứ Quảng, nhưng thơ Đỗ Thượng Thế mang lại một giọng điệu mới, gần gũi mà khác lạ, đắm say mà tinh lọc trong một dòng chảy xúc cảm ngôn ngữ hiện đại giàu cá tính. Ngoài tài năng thi ca, Đỗ Thượng Thế còn cho thấy sự lao động nghiêm cẩn, công phu trên từng câu từng chữ, không chỉ tái hiện và lưu giữ ký ức mà còn hiển lộ giấc mơ tạo sinh. Anh như người nông dân của vùng đất “chưa mưa đã thấm” chẳng chịu dừng ở giới hạn thâm canh mùa gặt mới mà còn hướng tới sự sáng tạo, thay đổi, biến cánh đồng ngàn đời thành không gian văn hoá sống động ngập tràn tình yêu và ánh sáng màu xanh tương lai. Khởi đầu Trích tôi rồi mới đây đến Dưới tấm trần rỉ mưa (NXB Hội Nhà văn tháng 10-2017), Đỗ Thượng Thế đang tự tin mở ra con đường riêng biệt và nhiều bất ngờ của một trong những đại diện thơ trẻ tiêu biểu nhất đất Quảng đầu thế kỷ XXI. (PH)

Nhà thơ Đỗ Thượng Thế

 

 

TỰ KHÚC

  (Với quê ngoại, Đại Hồng)

 

Có gì tận đáy nỗi buồn chòi ra từ giọng chào mào leo lẻo tháng Giêng
như chú bò con vừa mới đẻ sau vườn bết lấm cỏ khô tháng Chạp
Đại Hồng! Ơi… Đại Hồng! – Ai đó từng gọi ta như thế khi ta lầm lũi trên con đường gai
khi ta sốc nỗi dại cuồng hoang vu đến đuối
Đại Hồng! Thì ra con dế trống lửa vẫn xoay đầu ra Cựu Thổ lầm lầm lì lì tro bụi
điệu gáy nực nồng nụ hoa bù sít
Vẫn bện chạc trâu vẫn khấc dòm bò dắt giấc mơ ta qua cầu Đàng Huỳnh
qua ngã Hai Sông, qua khe Đá Trải
qua bao mùa lụt “cột đầu gốc dâu”
nước lũ xô làng cuốn trôi bát hương bát gạo
cuốn trôi biền biệt duyên thì chị ta

 

Đại Hồng! Ta lại trở về băng cồn Tịnh Đông cạp nhai bắp sống
hít no sữa đất tươi non bằng hai hàm răng sún của thằng cu Dân Xóm Chùa một thời đen đúa
Một thời quần cụt lưng trần ngồi bệt xuống chiều mơ chén cơm không

, giẽ con cá lầm cá nục
Một thời mẹ ta rạc chân chợ sớm chợ chiều đò ngang đò dọc còng lưng bánh khoai bánh sắn
Cha ta dầu dãi tắc – rì

ngọn roi cứ rứt lòng vút thét
Nước mắt trâu già nhiều khi chảy ngược
khiến cánh đồng hoàng hôn thăm thẳm và buồn
Một thời cả làng sớm hôm mót củ, họ hay kể nhau nghe câu chuyện bỗng dưng nhặt vàng
Rồi bỗng dưng luống cày ửng màu cổ tích
Và những khi tận cùng cố sức, họ thường: – “I-cờ-rếch (y) nằm ngay tại chỗ!…”
ôi, cách giễu cuộc người như say

 

Ta lại trở về ngôi trường chân núi
Bạn ta áo vá mảnh dưa mảnh lúa Hà Vi, Lập Thạch
bạn ta tóc săn đỏ nắng đầu nguồn Hữu Trinh, Xóm Mới
da chì vỏ sắn Phước Lâm
Con chữ một thời ẩm mùi đất bệ, quánh nhựa cây rừng lấm lem tro rẫy và từng biết nhặt lên từ thảm máu sân trường

 

Đại Hồng! Thì ra trong những niềm lửa hạn đời ta
tỏa biêng biếc Vu Gia cánh buồm ngược nguồn lằng lặng
tỏa tím ngát cỏ lau sương chiều Mồ Côi, Mụ Đụng
rần rần bóng nước Khe Lim tiếng vượn chót gành mòn mỏi
tỏa hơi thở cơn mưa trẻ trung mùa hạ thơm mát ngực em trăng đầy…

 

Đại Hồng!
Những tháng ngày mù mịt
ta thường mơ về khu vườn tụ gió bốn phương
ở đó thầy ta gầy gầy mắt kiếng, đêm đêm treo ngọn đèn thơ.

———————–

Cơm không độn.

Tiếng hô điều khiển trâu, bò cày sang trái, phải.

Vụ nổ bom còn sót lại sau chiến tranh đã làm chết và bị thương nhiều học sinh trong lúc lao động trên sân trường (1977).

 

 

PHÍA ĐÀN CHIM GỌI BẦY

 

Tu tu r…út

Tu tu r…út…

Có những đêm bé con thổi qua khe cửa

Hơi ấm con cu no đậu no mè

Rồi lướt nghiêng nghiêng

Qua vạt chiều kia ngưng nắng

Rồi nheo mắt

Rồi u ầm 

Rồi thăm thẳm…

 

Lại có người dựng chui cày

Thịt da đẫm mùi đất bệ

Người tắm ngọn gió mọc lên từ nổng gò

Người đi như bóng sông mưa

Gánh gồng sương buổi chợ

Chân trời đốt đuốt

Soi từng giọt hừng đông

Tu tu r…út

Tu tu r…út…

 

Có những đêm kẻ mộng du thổi không ra hơi

Một bị cuội rơi ú ớ

Hai bàn tay chặp vào run rẩy

Như bái về phía thượng nguồn

Về phía đàn chim gọi bầy

Tu tu r…út

Tu tu r…út…

 

 

 

VŨ ĐIỆU GỐM

 

Từ mơ khát lên ngàn độ lửa

Em bước ra lộng lẫy điệu sa hồng

Lộng lẫy phương Đông

Trào…

Và tĩnh…

Xác hồn hòa phối!

 

Ngước nghiêng nghiêng tia mắt lưng chừng

Thế mà tóm tận xanh mây dại

Hừng hực ngát mạch mùa ngực mẩy

Bụi trở khúc ngời

Trông nắng hom hem

 

Tà khói vén

Eo trần khỏa gió

Thả sức xuân vươn cánh tay mầm

Hoa mãn khai xòe thơm ngón nõn

Nhón bổng gót thì

Thắp ngọn bình minh

 

Buồn vui lắng làn môi lửa sắc

Ngây nụ nồng hồn đất đang men.

 

 

DƯỚI TẤM TRẦN RỈ MƯA

 

Nằm ngửa mặt dưới tấm trần rỉ mưa

dòng sông bị cơn đêm đốt cháy

nét than vẽ muôn hình vô vọng

cánh buồm nào mọc lên

 

Ngôi nhà cố ngoại liễn đối cột kèo

bỏ hoang trong khói

dậu gộc trơ khô

thấy đâu mấy đọt bìm

 

Trưa cắm chang chang đầu ngõ

mắt hoa đom đóm chính ngọ

hạt nổ đỏ xanh vàng trắng

vãi cô hồn

 

Nhạc lễ đất đai vang lên

vang lên…

ánh mắt di dân dọc đường về

héo cơn đói mới

 

Khu vườn chân núi

ai đó gọi mà không ai mở cửa

ấm ức giếng thơi

nhiều năm dềnh một tiếng gàu đứt dây

 

Có phải thân tàn của gã chiêm bao

cái bóng tha về

nằm nhai mảnh tình dại

 

Ồ…

vị sư già khất thực cơn mưa

chiều lặn vào chiếc khung chạm trổ công phu

và thếp vàng A Di Đà Phật…    

 

ĐỖ THƯỢNG THẾ

 

 

TIN THƠ: 

 

>> Lê Thanh Vy tâm còn khổ thì tài đâu có chỗ

>> Mai Hương & những dòng thơ rỏ máu

>> Bùi Nguyễn Trường Kiên thèm hương chẳng phải từ hoa

>> Trần Dzạ Lữ tiếng mạ gầy chiêm bao

>> Xuân Trà câu thơ chìm nổi

>> Trúc Linh Lan nhan sắc mùa giông bão

>> Lương Ngọc An nhật ký về hoa sữa

>> Kim Hương tình theo tràng hạt lặng thinh chợ đời

>> Đặng Tường Vy nghe ngôn ngữ chính mình lên tiếng

>> Phương Viên cái rét cũ vẫn còn tê ký ức

>> Nguyễn Vũ Quỳnh trả mùa thu cho em

 

 

>> ĐỌC THƠ TÁC GIẢ KHÁC…